Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.63 KB, 60 trang )
Khóa luận tốt nghiệp
-
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Thiếu công tác thẩm định rủi ro trong quá trình cấp tín dụng:
Từ mô hình quản lý rủi ro tín dụng được đưa ra chưa hoàn thiện dẫn đến quy trình
cấp tín dụng đối với doanh nghiệp đang thiếu khâu thẩm định rủi ro tín dụng độc lập đối với
các khoản vay tại Chi nhánh, chỉ có một số các Công ty mà mức giới hạn tín dụng thuộc
thẩm quyền phê duyệt của Hội sở chính thì Chi nhánh mới trình lên HSC, còn đối với các
khách hàng còn lại chi nhánh tự quyết định việc cấp tín dụng mà không có bộ phận thẩm
định rủi ro độc lập. Đây là một kẽ hở lớn dễ dẫn đến rủi ro tín dụng phát sinh, sẽ làm phát
sinh nợ xấu.
-
Công tác theo dõi, giám sát khoản vay, kiểm tra sử dụng vốn vay chưa đạt hiệu quả cao:
Công ty tác theo dõi, giám sát khoản vay còn mang nặng tính hình thức, đối phó. Cán
bộ tín dụng thực hiện việc theo dõi, giám sát, kiểm tra sử dụng vốn vay chưa bám sát tình
hình hoạt động kinh doanh thực tế của doanh nghiệp mà chỉ tiến hành kiểm tra mang tính
hời hợt, chưa có sự đối chiếu sổ sách kế toán của khách hàng …Vì vậy, dẫn đến nội dung
trên biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay hoặc các báo cáo trình lên cấp trên không phản ánh
được những điểm đáng lưu ý về tình hình kinh doanh của khách hàng mà đó có thể là
nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
-
Chất lượng công tác thẩm định tài sản thế chấp chưa cao:
Hiện nay, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói chung và SGD nói riêng đã
có quy định về nhận tài sản thế chấp nhưng quy định này chủ yếu đề cập đến nội dung về tỷ
lệ tài sản bảo đảm, chưa có quy trình nghiệp vụ cụ thể cũng như các tiêu chí trong việc định
giá sản thế chấp. Chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp cho công tác định giá tài sản thế
chấp, nguồn thông tin để khai thác, phục vụ cho công tác thẩm định tài sản còn hạn chế. Vì
vậy, đưa đến một thực trạng là, công tác thẩm định tài sản để nhận làm tài sản thế chấp tại sở
giao dịch chưa có quy chuẩn, chất lượng thẩm định chưa cao.
-
Quy trình phân loại nợ và trích lập DPRR đang được áp dụng chưa phù hợp.
Theo quy trình phân loại nợ hiện hành thì phân loại nhóm nợ dựa hoàn toàn vào mức
xếp hạng của khách hàng, không dựa vào thời gian thực tế của khoản nợ. Đây thực sự còn là
một bất cập đối với việc phân loại nợ của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói
chung và của Sở giao dịch nói riêng. Như chúng ta đã biết mỗi mỗi nhóm nợ có tỷ lệ trích
lập dự phòng cụ thể khác nhau dẫn đến số tiền trích lập dự phòng rủi ro khác nhau. Với quy
trình phân loại nợ hiện nay thì sẽ xảy ra trường hợp có những khoản nợ đã quá hạn trên 10
ngày (nghĩa là được phân vào nhóm 2 theo quy định trước đây) thì hiện nay nếu như nếu
mức xếp hạng được phân vào nhóm 1 thì đương nhiên khoản nợ vẫn ở nhóm 1 và tỷ lệ trích
lập dự phòng rủi ro cụ thể là 0%. Việc quá hạn này chỉ được đánh giá vào phần lịch sử nợ
quá hạn khi đến kỳ chấm điểm xếp hạng tín dụng tiếp theo. Đây là một vấn đề còn chưa phù
hợp khi đánh giá các khoản nợ, ảnh hưởng đến công tác quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
44
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
-
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Hệ thống công nghệ thông tin đã lỗi thời, chưa được cập nhật hiện đại:
Hệ thống phần mềm lõi của Ngân hàng TMCP Ngoại thương đã được ra đời từ những năm
2000 nên tính đến thời điểm hiện tại nó đã có tính lỗi thời, gây nhiều khó khăn cho công tác
quản lý của các cấp lãnh đạo và cán bộ tín dụng trong việc quản lý tín dụng.
-
Chất lượng cán bộ trong công tác thẩm định còn chưa đồng đều, trình độ thẩm định còn thể
hiện sự yếu kém:
Cán bộ làm công tác thẩm định tín dụng còn có trình độ chưa đồng đều dẫn đến công
tác điều hành, quản lý đối với hoạt động tín dụng khá khó khăn. Chất lượng cán bộ tín dụng
có trình độ chưa cao dẫn đến chất lượng công tác thẩm định còn hạn chế. Đối với một số cán
bộ tín dụng, khả năng tự phát hiện rủi ro tín dụng đối với các khoản vay là khá khó khăn.
Đặc biệt, có một số cán bộ do trình độ hạn chế nên việc nắm bắt tinh thần chỉ đạo của lãnh
đạo của cấp trên và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ chưa sâu dẫn đến sự lúng túng trong
quá trình triển khai, thực hiện nghiệp vụ tín dụng cũng là yếu tố có thể dẫn đến rủi ro tín
dụng.
3.1.2.2. Nguyên nhân
a,
Nguyên nhân Khách quan:
Môi trường pháp lý không thuận lợi: Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động tín dụng còn
chưa thuận lợi cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Các quy định liên
quan đến vấn đề tài sản thế chấp còn nhiều bất cập. Có rất nhiều tài sản của Doanh nghiệp
hiện nay không có đăng ký sở hữu trong khi đây lại là điều kiện bắt buộc đối với các tài sản
được sử dụng làm tài sản thế chấp.
Ảnh hưởng của biến động thị từ thị trường trong nước và thế giới: Ngân hàng cũng
phải đối mặt với những khó khăn từ thị trường trong nước và thế giới. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, sau cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới, thị trường thế giới đang
diễn biến phức tạp, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước đều giảm mạnh so với các
năm trước, một nền kinh tế lớn trên thế giới là Mỹ, Châu Âu đang đứng trước nguy cơ giảm
sút về tiềm lực tài chính. Hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới đều bị những Công ty
đánh giá tín nhiệm có uy tín trên thế giới đã đánh tụt hạng nền kinh tế. Qua đó cho thấy một
dấu hiệu không mấy khả quan cho nền kinh tế thế giới.
b,
Nguyên nhân chủ quan:
Trong Công tác ngăn ngừa nợ xấu phát sinh:
-
Việc ban hành chính sách quản lý rủi ro tín dụng chưa đi liền với thực tế:
Như chúng ta đã biết, nguồn gốc của nợ xấu bắt nguồn từ rủi ro tín dụng. Chính vì
vậy, một chính sách quản lý rủi ro tín dụng chưa hoàn thiện sẽ là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn
đến nợ xấu phát sinh. Với chính sách quản lý rủi ro tín dụng có nhiều mặt tồn tại như đã
phân tích ở phần trên bắt nguồn từ công tác ban hành chính sách quản lý rủi ro tín dụng chưa
45
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
chưa thực sự phát huy được tác dụng của việc quản lý rủi ro. Với chính sách hiện nay còn
thể hiện nhiều kẽ hở dễ dẫn đến rủi ro tín dụng xảy ra.
-
Còn thiếu bộ phận thẩm định tài sản bảo đảm độc lập, chuyên nghiệp:
Nguyên nhân dẫn đến chất lượng thẩm định tài sản tại SGD còn chưa đạt chất lượng tốt vì
hiện tại SGD chưa có bộ phận thẩm định tài sản bảo đảm chuyên nghiệp, việc nhận tài sản
thế chấp, định giá cũng như thẩm định tài sản thế chấp cho các khoản vay tại SGD
Vietcombank được tiến hành bởi chính cán bộ tín dụng. Trên thực tế cán bộ tín dụng chưa
hẳn đã có nghiệp vụ chuyên sâu về công tác thẩm định tài sản, không được đào tạo chuyên
sâu về lĩnh vực này nên thiếu kỹ năng thẩm định tài sản chuyên nghiệp. Mặt khác, hiện tại
theo quy định của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thì giá trị tài sản có ảnh hưởng
đến giá trị cấp tín dụng nên khi công tác thẩm định tài sản không được tiến hành bởi một bộ
phận độc lập thì dễ dẫn đến khả năng giá trị giá tài sản được đánh giá cao hơn, dễ dẫn đến
rủi ro khi tổn thất xảy ra.
-
Chưa có bộ phận kiểm tra, giám sát khoản vay độc lập:
Nguyên nhân khiến cho công tác kiểm tra, giám sát khoản vay chưa đạt hiệu quả là do chưa
có bộ phận kiểm tra, giám sát khoản vay độc lập với bộ phận tín dụng. Hiện tại, công tác
theo dõi khoản vay và kiểm tra sau cho vay được tiến hành bởi cán bộ trực tiếp quản lý
khách hàng. Việc kiểm tra sử dụng vốn vay không được tiến hành bởi một bộ phận độc lập
nên sẽ nảy sinh vấn đề là: Cán bộ tín dụng đã quá quen thuộc khách hàng, nghĩ rằng mình đã
hiểu rõ khách hàng nên đôi khi bỏ qua những động tác kiểm tra cần thiết hoặc đôi khi vì một
lợi ích bên ngoài mà cán bộ tín dụng sẵn sàng bỏ qua việc nêu ra vấn đề khách hàng sử dụng
vốn sai mục đích....
-
Bộ phận ban hành quy trình về phân loại nợ chưa có định hướng phù hợp với thực trạng
đánh giá khoản nợ:
Trước đây, việc phân loại nợ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được thực hiện
theo nội dung của điều 6, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, theo đó việc phân loại sẽ
được dựa vào thời gian thực tế của khoản nợ. Tuy nhiên, đến năm 2010, Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam bắt đầu sửa đổi quy trình phân loại nợ, theo đó áp dụng theo nội
dung của điều 7, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Theo quy định mới này, NHNT áp
dụng việc phân loại nợ chỉ dựa vào mức xếp hạng tín dụng của khách hàng, không dựa vào
tình trạng khoản nợ. Việt áp dụng như vậy đã dẫn đến quy trình phân loại nợ có nhiều tồn tại
như đã nêu ở phần trên. Nguyên nhân là do, bộ phận ban hành chính sách về phân loại nợ
của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam có định hướng chưa đúng về quy trình phân
loại nợ, dẫn đến điểm chưa phù hợp. Hiện tại NHNN Việt Nam đang soạn thảo Quyết định
về phân loại nợ để thay thế quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Theo định hướng của Quyết
định mới này, việc phân loại nợ sẽ được áp dụng theo hướng kết hợp giữa xếp hạng tín dụng
của khách hàng và thực trạng khoản nợ.
46
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
-
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Việc cập nhật hệ thống công nghệ thông tin chưa kịp thời:
Hiện tại, phần mềm lõi của NHNT đang sử dụng đã lạc hậu, chưa theo kịp được một số các
Ngân hàng khác. Nguyên nhân của vấn đề này là NHNT chưa có sự đầu tư phù hợp để nâng
cấp chất lượng của hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho các hoạt động khác của Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
-
Chưa có chính sách tuyển dụng, đào tạo cán bộ phù hợp:
Hiện tại, chất lượng cán bộ tín dụng tại Sở giao dịch có chất lượng chưa đồng đều, chuyên
môn nghiệp vụ còn chưa đáp ứng tốt nhu cầu công việc. Nguyên nhân của vấn đề này là do
công tác tuyển dụng cán bộ còn chưa được chú trọng đúng người, đúng việc, công tác đào
tạo còn chưa được đầu tư đúng mức...
Trong công tác xử lý nợ xấu:
-
Công tác xử lý nợ xấu chưa có phương pháp đúng đắn:
Mặc dù, SGD đã rất cố gắng trong công tác xử lý nợ xấu nhưng những phương pháp thực
hiện còn chưa thực sự quyết liệt và đúng đắn. Như với khoản nợ nội bảng, số dư nợ chủ yếu
là của Công ty CP container quốc tế CAS. Đây có thể nói là một điểm nhức nhối đối với nợ
xấu nội bảng của Sở giao dịch. Tuy SGD cũng đã tiến hành theo dõi tình hình hoạt động
kinh doanh của đơn vị để nắm bắt được các nguồn tiền về để thu nợ kịp thời nhưng đồng
thời cũng phải cho vay ra với số tiền lớn hơn để duy trì hoạt động kinh doanh của Công ty.
Với cách thức như trên nên tổng dư nợ xấu nhóm 5 của Sở giao dịch đã tăng thêm 300 tỷ
đồng từ 2010 đến 2011. Có thể nói, SGD đã cố gắng bám sát tình hình của Công ty để thu
nợ nhưng khi cán bộ của SGD không trực tiếp tham gia hàng ngày tại Công ty để có thể nắm
bắt tận gốc những vấn đề xảy ra tại Công ty thì chắc chắn không thể nắm bắt hết những khúc
mắc trong hoạt động kinh doanh để quản lý tốt nguồn thu nợ. Với cách thức quản lý các
khoản nợ quá hạn như những năm gần đây thì không tránh khỏi tình trạng những Công ty
như Công ty CP container quốc tế CAS tận dụng những cơ hội để dùng vốn vào những việc
không cần thiết, làm giảm bớt khả năng SGD thu được nợ.
Với các khoản nợ xấu ngoại bảng, việc thu hồi những khoản nợ này là vấn đề rất khó
khăn. Ngoài các Công ty có thể trả nợ thường xuyên Sở giao dịch như Công ty dệt may Nam
định mỗi tháng trả nợ cho Sở giao dịch khoảng 860 triệu đồng, Công ty Đức Phương trả nợ
cho Sở giao dịch khoảng 3.000 USD, còn lại các Công ty khác hầu hết là các Công ty không
còn khả năng trả nợ, có một số Công ty đã phá sản hoặc biến mất mà chưa được tuyên bố
phá sản nên không đủ điều kiện để Sở giao dịch trình xóa nợ theo quy định dẫn đến tình
trạng các khoản nợ bị treo lơ lửng mà không biết hướng giải quyết.
3.2. .....Định hướng phát triển tín dụng và quản lý nợ xấu của Sở giao dịch Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam
3.2.1. Định hướng chung
Trong những năm tới, Sở giao dịch Vietcombank sẽ lỗ lực phấn đấu tiếp tục giữ
47
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
vững là một trong những Chi nhánh đứng đầu của hệ thống Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam, là đơn vị cung ứng vốn cho hệ thống Ngân hàng Vietcombank nên công tác trọng
tâm của Sở giao dịch là công tác huy động vốn. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn trong
những năm tới khoảng 18% đến 20%/năm (trong đó, huy động vốn từ khách hàng tổ chức là
15%/năm), giữ vững thị phần huy động vốn chiếm 22% trong toàn hệ thống và 5,5% trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Về huy động vốn, đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 25%-28%/năm
trong đó, tỷ trọng cho vay SMEs chiếm 18%/tổng dư nợ, cho vay đầu tư dự án chiếm 40%
tổng dư nợ. Về thanh toán xuất nhập khẩu đặt mục tiêu tăng trưởng doanh số 10%/năm, phí
dịch vụ tăng 14 – 15%/năm. Đồng thời SGD Vietcombank sẽ tiếp tục phát triển hoạt động
tín dụng. Đối tượng khách hàng của SGD trong thời gian tới là những khách hàng mang mầu
sắc tư nhân, các Công ty thuộc các tập đoàn lớn. Phương thức là đẩy mạnh tiếp cận và phát
triển quan hệ tín dụng đối với các khách hàng có tỷ lệ tài sản bảo đảm cao, đáng ứng tốt theo
quy định của Hội sở chính và tăng cường mức độ an toàn cho hoạt động tín dụng của SGD.
3.2.2. Định hướng phát triển đối với hoạt động quản lý nợ xấu.
a. Đối với công tác ngăn ngừa nợ xấu phát sinh.
Đối với công tác ngăn ngừa nợ xấu, Sở giao dịch có định hướng như sau:
+ Chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Bên cạnh việc tuân thủ theo quy trình quản lý rủi ro
tín dụng theo quy định của Hội sở chính Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Sở giao
dịch có những biện pháp riêng để ngăn ngừa rủi ro tín dụng có thể xảy ra đối với các khoản
cấp tín dụng thuộc thẩm quyền của SGD.
+ Thường xuyên cập nhật diễn biến tình hình thị trường, có chính sách cơ cấu danh mục
đầu tư hợp lý, đảm bảo tăng dư nợ cho vay đối với những ngành nghề ít rủi ro, có lộ trình
giảm dư nợ đối với các ngành nghề có nhiều rủi ro.
+ Tập trung công tác đào tạo để nâng cao trình độ cán bộ thẩm định tín dụng, cán bộ kiểm
tra, giám sát tuân thủ.
b. Đối với công tác xử lý nợ xấu:
Với nợ nội bảng:
Về nợ xấu nội bảng: Trong thời gian sắp tới, Sở giao dịch đặt ra kế hoạch duy trì tỷ lệ nợ
xấu là: Tính đến cuối năm 2013 sẽ dưới 2%. Đồng thơi Sở giao dịch tiếp tục thực hiện tăng
trưởng dư nợ đủ tiêu chuẩn và không làm gia tăng nợ xấu để giúp cho tỷ lệ nợ xấu của Sở
giao dịch Vietcombank giảm xuống. Ngoài ra, để thực hiện tốt việc giảm tỷ lệ nợ xấu, với
các khoản nợ nợ xấu của các khách hàng khác như: Công ty Việt Hoa, Công ty TNHH
khuôn mẫu và cơ khí SQC, công ty kim loại Hoàng Gia, Công ty đầu tư XNK XD&P..., Sở
giao dịch tập trung thực hiện các biện pháp cần thiết để thu nợ, giảm tỷ lệ nợ xấu của Sở
giao dịch.
Đối với nợ đang được hạch toán ngoại bảng:
Sở giao dịch đặt ra mục tiêu đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu ngoại bảng. Cụ thể năm 2013,
48
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
Sở giao dịch đặt ra mục tiêu thu hồi được khoảng hơn 30 tỷ đồng từ nợ đã xử lý dự phòng
rủi ro. Để thực hiện tốt việc thu hồi nợ xấu, SGD cần thực hiện thống kê lại toàn bộ tình
hình của các khoản nợ, đánh giá khả năng thu hồi của từng khoản nợ để có biện pháp thực
hiện cần thiết đối với từng khoản nợ. Phương hướng cụ thể đối với từng khoản nợ như sau:
+
Đối với khoản nợ của Công ty CP Đầu tư XNK XD&P, Sở giao dịch cần đẩy mạnh quá
trình làm việc với Toà án kinh tế để kiến nghị Toà án yêu cầu Tổ thanh lý tài sản Công ty
CP Đầu tư XNK XD&P để hoàn thiện việc bàn giao tài sản cho bên mua nợ.
+
Đối với các khoản nợ mà Sở giao dịch Vietcombank xác định được là còn khả năng thu
nợ nhưng khách hàng không hợp tác trong việc trả nợ, SGD vận dụng toàn bộ các biện pháp
cần thiết để gây sức ép trả nợ đối với khách hàng.
+
Đối với các khoản nợ không xác định được khách hàng còn tồn tại hay không, Sở giao
dịch kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để ban hành các chính sách nhằm có biện pháp
giải quyết các khoản nợ dạng như trên, tránh trường hợp để tồn tại theo dõi ngoại bảng quá
lâu mà không có cách giải quyết.
3.3. Các giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu trong thời gian tới tại Sở giao dịch Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
3.3.1. Giải pháp phòng ngừa nợ xấu phát sinh
+
Về cơ chế chính sách: Hoàn thiện các Chính sách áp dụng.
Về cơ chế chính sách, SGD Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chủ yếu thực
hiện theo những cơ chế chính sách nội bộ được Hội sở chính ban hành, SGD Vietcombank
không có chức năng ban hành chính sách nên việc sửa đổi cơ chế, chính sách sẽ do Hội sở
chính thực hiện, SGD chỉ có thể thực hiện góp ý với Hội sở chính để hoàn thiện những
Chính sách sau:
-
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng:
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng hiện nay đang được áp dụng trong hệ thống Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam còn có nhiều bất cập. Tại các Chi nhánh không có bộ
phận quản lý rủi ro tín dụng nên dẫn đến việc công tác thẩm định rủi ro có nhiều hạn chế. Sở
giao dịch Vietcombank nên có ý kiến với Hội sở chính để hoàn thiện hơn chính sách quản lý
rủi ro tín dụng áp dụng trong toàn hệ thống Ngân hàng Vietcombank. Trên thực tế, quy trình
quản lý rủi ro tín dụng theo quy trình trước đây đã được áp dụng (Quy trình có Phòng quản
lý rủi ro tín dụng tại các Chi nhánh) thực sự là quy trình mà các nước trên thế giới đang áp
dụng. Tuy nhiên, khi áp dụng vào bối cảnh của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
thì đưa lại một thực tế chưa phù hợp do tính hợp tác giữa các Phòng, ban còn chưa cao. Tuy
nhiên, với quy trình như hiện nay là bỏ đi bộ phận quản lý rủi ro tín dụng tại các Chi nhánh
cũng sẽ khiến cho việc phát sinh rủi ro tín dụng dễ xảy ra. Vì vậy, để có một mô hình quản
lý rủi ro tín dụng hiệu quả, Ngân hàng Vietcombank nên nghiên cứu để sửa đổi lại quy trình
quản lý rủi ro tín dụng, đồng thời có những quy chế chặt chẽ về mặt thời hạn thực hiện tác
49
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
nghiệp giữa bộ phận khách hàng, bộ phận quản lý rủi ro để đưa đến hiệu quả cấp tín dụng tốt
hơn, đảm bảo vừa quản lý được rủi ro tín dụng vừa đáp ứng yêu cầu tiến độ cấp tín dụng đối
với khách hàng.
-
Thay đổi chính sách quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đang được
áp dụng cho phù hợp:
Chính sách phân loại nợ đang được Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói chung và
SGD Vietcombank nói riêng đang áp dụng có nhiều điểm chưa phù hợp. Việc phân loại nợ
được dựa hoàn toàn vào xếp hạng tín dụng, không căn cứ vào thời gian của khoản nợ để lấy
cơ sở trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là chưa hợp lý để đánh giá khoản nợ. Với quy định
như hiện nay sẽ xảy ra trường hợp, khoản nợ của khách hàng có thể quá hạn đến hơn 10
ngày, đáng ra sẽ bị phân loại vào nhóm 2 để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Nhưng với
quy định hiện nay thì trong thời gian còn lại trong quý mà khoản nợ bị phát sinh quá hạn
(chưa đến kỳ chấm điểm, xếp hạng Quý tiếp theo) thì khoản nợ quá hạn về thời gian đó vẫn
được phân loại vào nhóm 1, chỉ đến kỳ chấm điểm, xếp hạng của quý tiếp theo thì việc nợ
quá hạn trên mới được đánh giá vào lịch sử trả nợ trong phần đánh giá phi tài chính. Vấn đề
này thực sự chưa phù hợp với tình hình thực tế. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang soạn
thảo quyết định để thay thế quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN quy định về phân loại nợ và
trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Hướng thay đổi của NHNN trong quyết định này là sẽ áp
dụng việc phân loại nợ theo tinh thần của Điều 7, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN trước
đây. Việc phân loại nhóm nợ của khách sẽ được căn cứ vào mức xếp hạng của khách hàng
và cả thời gian của khoản nợ. Như vậy, Ngân hàng Vietcombank nên sớm sửa đổi lại quy
định về phân loại nợ cho phù hợp.
+ Về quy trình thực hiện: Chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ, bao gồm các quy trình sau:
- Chuẩn hoá quy trình cấp tín dụng: Việc chuẩn hoá cơ chế chính sách được ban hành ở
phần trên sẽ là cơ sở để chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ. Vì vậy, Sở giao dịch Vietcombank
cần góp ý với Hội sở chính để chuẩn hoá quy trình cấp tín dụng áp dụng trong toàn hệ thống.
Trong thời gian chờ HSC sửa đổi quy trình, Sở giao dịch nên triển khai theo hướng tại các
Phòng cấp tín dụng có bộ phận thẩm định rủi ro góp phần nâng cao chất lượng công tác
thẩm định khách hàng, từ đó để tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng, chủ động sớm
phát hiện những rủi ro tiềm ẩn nhằm ngăn ngừa nợ xấu phát sinh. Công tác thẩm định rủi ro
tín dụng tại Sở giao dịch phải thực sự được chú trọng để đảm bảo chất lượng cấp tín dụng
được tốt nhất.
- Thành lập bộ phận thẩm định tài sản bảo đảm độc lập tại Sở giao dịch.
Như đã phân tích ở phần trên, việc có một bộ phận thẩm định tài sản độc lập là hết
sức cần thiết đối với hoạt động tín dụng tại SGD. Hiện tại Sở giao dịch không có bộ phận
thẩm định tài sản độc lập, mọi công việc về định giá tài sản do cán bộ tín dụng tiến hành.
Việc này dẫn đến bất cập là nhiều cán bộ tín dụng không đủ chuyên môn chuyên sâu về
50
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
công tác thẩm định tài sản nên chất lượng thẩm định tài sản không cao. Mặt khác, theo quy
định của VCB, giá trị thẩm định tài sản có tính chất quyết định đến số tiền cấp tín dụng. Vì
vậy, việc cán bộ tín dụng tự thẩm định tài sản khiến cho công tác thẩm định tài sản thiếu tính
khách quan. Một trong những giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra là cần phải thành
lập bộ phận thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay độc lập tại SGD.
-
Nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Để nâng cao năng lực hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ cần thực hiện một
số biện pháp sau đây:
Thứ nhất, kiện toàn tổ chức hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ
hiện có, thành lập bộ phận kiểm tra giám sát tín dụng độc lập trực thuộc Phòng kiểm tra
giám sát nội bộ. Trước đây, việc kiểm tra các khoản vay sau khi giải ngân đều giao cho
cán bộ tín dụng thực hiện. Như vậy, để đảm bảo quản lý rủi ro một cách khách quan, hạn
chế rủi ro phát sinh thì Sở giao dịch cần thành lập bộ phận kiểm tra giám sát tín dụng
thuộc bộ phận kiểm tra giám sát tuân thủ. Bộ phận này có chức năng giám sát tín dụng,
kiểm tra sử dụng vốn vay ngay sau cho vay.
Hai là, Phát huy chức năng của hoạt động kiểm toán độc lập, phối hợp giữa kiểm toán bên
trong và bên ngoài thật chặt chẽ, làm hạn chế tối đa khả năng che dấu rủi ro tín dụng, qua đó
phát hiện và xử lý kịp thời rủi ro.
-
Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, đánh giá khoản vay dựa trên các tiêu chuẩn thống
nhất:
Công tác thẩm định tín dụng đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình cấp tín dụng đối
với khách hàng. Vì vậy, Sở giao dịch Vietcombank cần có biện pháp để nâng cao chất lượng
trong công tác thẩm định tín dụng. Muốn vậy cần phải xuất phát từ việc đánh giá khoản vay.
Có 5 tiêu chuẩn để đánh giá khoản vay, cụ thể như sau:
Thứ nhất là tính cách: Cán bộ tín dụng cần xác định được mục tiêu rõ ràng của
khách hàng khi vay vốn, có kế hoạch trả nợ nghiêm túc. Khi mục đích vay được làm rõ, cán
bộ tín dụng cần phải quyết định xem quyết định cho vay phương án đó có phù hợp với chính
sách của Ngân hàng không? Cán bộ tín dụng phải có phương pháp đánh giá đối tượng vay
vốn có thể hiện trách nhiệm trong việc trả nợ Sở giao dịch Vietcombank hay không.
Thứ hai là năng lực: Cán bộ tín dụng cần xem xem khách hàng có đủ năng lực vay
vốn và đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng tín dụng và các giấy tờ có liên quan
hay không. Khả năng trả nợ của khách hàng thể hiện qua sự khỏe mạnh về khả năng tài
chính của khách hàng. Năng lực là yếu tố rất quan trọng để giúp cho khách hàng có khả
năng trả nợ đúng hạn hay không? Vì vậy, khi thẩm định vay vốn, việc đánh giá năng lực trả
nợ của khách hàng là cần thiết.
Thứ ba là dòng tiền mặt: Dòng tiền mặt có ý nghĩa rất quan trọng quyết định đến khả
năng trả nợ của khách hàng. Điều này thể hiện khách hàng có khả năng tạo ra dòng tiền đủ
51
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
đáp ứng khả năng trả nợ hay không. Dòng tiền thường có 03 nguồn:(i) nguồn từ doanh thu
bán hàng, (ii) nguồn từ bán tài sản, (iii) nguồn huy động khác. Tuy nhiên, trong 03 nguồn
trên thì nguồn mà Ngân hàng có thể hy vọng để trả nợ trong điều kiện bình thường là nguồn
thu từ doanh thu bán hàng. Chính vì vậy, việc cần thiết đối với cán bộ tín dụng là thẩm định
khả năng tiêu thụ hàng hoá, mang lại nguồn tiền trả nợ.
Thứ tư là tài sản thế chấp: Khách hàng phải có đủ tỷ lệ tài sản thế chấp theo quy
định của Ngân hàng Vietcombank. Cán bộ tín dụng cần khuyến khích những khách hàng bổ
sung nhiều tài sản thế chấp cho các khoản vay vì tài sản thế chấp là biện pháp hạn chế rủi ro
khá tốt khi khách hàng không có khả năng trả nợ.
Thứ năm là các điều kiện môi trường kinh tế: Cán bộ tín dụng cần phải có cái nhìn
chủ quan, sắc bén đối với môi trường kinh tế tác động đến khả năng hoạt động của khách
hàng vì điều kiện môi trường kinh tế đặc biệt là tình hình ngành hàng của mặt hàng xin vay
mà có xu hướng xấu đi sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hoá của khách hàng và ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ.
-
Nâng cao ý thức tuân thủ tốt các quy định của Ngân hàng Nhà nước, những quy định của
Hội sở chính trong việc cấp tín dụng đối với khách hàng:
Việc tuân thủ các quy định của pháp luật trong việc cấp tín dụng không những là yêu cầu bắt
buộc đối với các Tổ chức tín dụng mà còn là yếu tố cần thiết để Tổ chức tín dụng có thể
phòng ngừa rủi ro tốt nhất. Vì vậy, Sở giao dịch Vietcombank nhất thiết phải tuân thủ chặt
chẽ các quy định của Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nước và các quy định nội bộ của Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, tránh các trường không tuân thủ các văn bản quy định
dẫn đến rủi ro xảy ra trong quá trình cấp tín dụng.
-
Xây dựng hệ thống dự báo diễn biến thị trường của các ngành hàng chủ yếu mà Sở giao
dịch có dư nợ lớn:
Việc xây dựng được hệ thống dự báo về diễn biến thị trường theo từng ngành hàng sẽ giúp
cho Sở giao dịch có được định hướng cụ thể trong việc phát triển dư nợ, theo đó SGD có thể
lượng hoá được dư nợ đối với từng ngành hàng. Khi có được thông tin dự báo kịp thời về
từng ngành hàng sẽ giúp cho Sở giao dịch chủ động trong kế hoạch phát triển tín dụng.
-
Đẩy mạnh sự phối kết hợp giữa các phòng, ban trong cùng Chi nhánh cũng như giữa các
chi nhánh với Hội sở chính, với các chi nhánh khác trong công tác tín dụng và công tác xử
lý nợ xấu.
Trong công tác tín dụng và công tác quản lý nợ xấu cần có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các bộ phận có liên quan, vì vậy việc các Phòng ban trong cùng Chi nhánh như Phòng
Khách hàng và Phòng Quản lý nợ kết hợp tốt với nhau sẽ dẫn đến công tác xử lý hồ sơ, tiến
độ giải ngân hàng của khách hàng nhanh chóng hơn cũng như có thể phát hiện ra những sai
sót trong quá trình tác nghiệp. Ngoài ra cần có sự phối hợp tốt giữa Chi nhánh và Hội sở
chính sẽ giúp cho công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các Chi nhánh được tốt hơn. Sự phối
52
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
hợp giữa Chi nhánh và HSC trong hệ thống Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thể
hiện ở chỗ, Chi nhánh báo cáo các thông tin lên Hội sở chính phải đầy đủ, kịp thời, có tính
chính xác cao. Ngược lại, Hội sở chính có các quyết sách chính xác trong từng vấn đề để
ngăn ngừa rủi ro một các tốt nhất. Bên cạnh đó, Phòng quản lý rủi ro tín dụng tại HSC cần
thường xuyên có những dự báo kịp thời về tình hình thị trường của các ngành hàng, những
rủi ro mang tính chất ngành có thể xảy ra để cảnh báo cho các Chi nhánh. Sự phối hợp càng
chặt chẽ sẽ dẫn đến công tác phòng ngừa rủi ro càng tốt hơn.
-
Sở giao dịch Vietcombank cần chú trọng đến việc hỗ trợ khách hàng sau cho vay:
Bộ phận tín dụng cần thường xuyên theo dõi quá trình sử dụng vốn của khách hàng,
đảm bảo khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, đồng thời cán bộ SGD Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam cần phải thu thập thông tin nhiều chiều, có sự tư vấn kịp
thời cho khách hàng về các vấn đề pháp lý, về thông tin ngành hàng để hoạt động kinh
doanh của khách hàng có thể tránh được rủi ro xảy ra. Ngược lại phải làm sao để khách hàng
sẵn sàng thông tin kịp thời cho Sở giao dịch về những khó khăn để khách hàng và Ngân
hàng cùng tìm cách tháo gỡ.
+
Về công tác tổ chức, quản lý, chú trọng công tác nguồn lực nhân sự: Hoàn thiện
công tác tổ chức quản lý của Sở giao dịch nói chung, đặc biệt trong công tác cấp tín dụng,
quản lý tín dụng nói riêng, cụ thể có các giải pháp như sau:
-
Chú trọng chất lượng trong công tác tuyển dụng cán bộ cho bộ phận tín dụng, bộ phận ban
hành chính sách tín dụng:
Đội ngũ cán bộ tín công tác tại các Phòng tín dụng đòi hỏi phải có trình độ chuyên cao, được
đào tạo đúng chuyên ngành. Vì vậy, trong công tác tuyển dụng cán bộ, Sở giao dịch nên chú
trọng để tuyển chọn những cán bộ làm việc trong các bộ phận tín dụng phải có kết quả học
tập tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, có hiểu biết về quy trình cấp tín dụng theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước...Đặc biệt, đội ngũ cán bộ làm việc tại Phòng Chính sách tín dụng
HSC phải là những người có trình độ chuyên môn cao, am hiểu về công tác tín dụng, đã trải
qua kinh nghiệm làm tín dụng, có như vậy mới có thể ban hành chính sách phù hợp để thực
hiện trong toàn hệ thống, đồng thời hỗ trợ các Chi nhánh trong quá trình thực hiện tác
nghiệp.
-
Chú trọng nâng cao chất lượng trong công tác bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo thuộc các bộ phận
tín dụng:
Công tác tổ chức, quản lý trong bộ phận tín dụng có vai trò rất cần thiết trong công tác
quản lý rủi ro tín dụng. Vì vậy, đòi hỏi những người lãnh đạo trong các bộ phận tham gia
công tác tín dụng phải có trình độ chuyên môn cao, nắm bắt kiến thức chuyên môn sâu,
có khả năng lãnh đạo nhậy bén, thấu tình đạt lý để cùng với cán bộ tín dụng phát hiện rủi
ro tín dụng kịp thời để góp phần hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra. Bản thân đội ngũ lãnh
đạo cần phải nâng cao hơn nữa trình độ quản lý, phát huy vai trò của người lãnh đạo
53
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: TS.Vũ Xuân Dũng
trong công tác quản lý rủi ro tín dụng.
-
Có chính đào tạo, sắp xếp nhân lực phù hợp, đặc biệt chú trọng đến nhân sự làm việc trong
bộ phận tín dụng. Nếu cần có thể thực hiện thuyên chuyển cán bộ giữa các bộ phận để đảm
bảo hiệu quả công việc tốt nhất.
Cán bộ thuộc bộ phận tín dụng đòi hỏi trình độ chuyên môn cao. Những người này
cần có kiến thức hiểu biết về một số nghiệp vụ khác của Ngân hàng như: nghiệp vụ thanh
toán quốc tế, thanh toán thẻ, bảo lãnh, nghiệp vụ vốn...Ngoài ra, họ còn phải là những người
hiểu về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để có thể thẩm định khách hàng một cách
tốt nhất. Chính vì vậy, với cán bộ tại các Phòng tín dụng nên lựa chọn những người có hội tụ
đủ các yếu tố trên ngoài việc họ được đào tạo chính thống về chuyên ngành Ngân hàng tài
chính. Mạnh dạn thuyên chuyển những cán bộ chưa đáp ứng đủ trình độ để phục vụ việc
thẩm định dự án sang bộ phận khác để xây dựng được một đội ngũ cán bộ tín dụng có trình
độ đồng đều cao. Lãnh đạo của bộ phận tín dụng phải là những người có trình độ chuyên
môn cao, bao quát tốt công việc, chủ động trong việc đối phó những rủi ro xảy ra.
-
Xây dựng quy chế thưởng phạt trách nhiệm đối với cán bộ công tác trong bộ phận tín dụng:
Tín dụng là hoạt động nhậy cảm, dễ làm nảy sinh lợi ích cá nhân của người cán bộ,
rủi ro đạo đức dễ có khả năng xảy ra. Để ngăn chặn những khả năng trên cũng như góp phần
hạn chế rủi ro tín dụng nhằm ngăn chặn nợ xấu, SGD Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam nên xây dựng quy chế thưởng phạt cụ thể đối với đội ngũ cán bộ công tác trong bộ
phận tín dụng. Chính sách này sẽ có tác dụng nhằm khuyến khích tinh thần làm việc của cán
bộ bên cạnh đó còn có tác dụng ngăn chặn rủi ro đạo đức xảy ra đối với cán bộ tín dụng,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của người cán bộ trong công tác tín dụng
+ Về công nghệ thông tin: Nâng cao chất lượng của hệ thống công nghệ thông tin.
Hệ thống công nghệ thống tin là yếu tố hỗ trợ quan trọng cho công tác quản lý tín
dụng của Sở giao dịch, vì vậy việc cần thiết là SGD Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam phải nâng cao chất lượng của hệ thống công nghệ thông tin, áp dụng hệ thống phần
mềm lõi hiện đại để góp phần quản lý tín dụng tốt hơn, giảm thời gian của cán bộ tín dụng
trong những công việc phải lập các báo cáo bằng tay mà thay vào đó phần mềm có thể cho
ra được các báo cáo, có như vậy mới nâng cao hiệu quả làm việc của bộ phận tín dụng.
3.3.2. Giải pháp xử lý nợ xấu đã phát sinh
-
Thực hiện thật tốt và quyết liệt để xử lý tối đa các khoản nợ xấu đã phát sinh:
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ làm việc trong bộ phận xử lý nợ xấu,
tiếp tục tiến hành các biện pháp cần thiết để xử lý nợ xấu, chọn ra những cán bộ có khả năng
phù hợp với việc xử lý nợ xấu của từng khoản nợ. Ban lãnh đạo cần chỉ đạo quyết liệt trong
công tác thu hồi nợ xấu. Đối với những khoản nợ lớn thì cán bộ SGD Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam cần xô sát hơn với tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty để
đạt hiệu quả thu nợ tốt hơn. Sở giao dịch cần có khuyến khích về vật chất đối với những
54
SV: Nguyễn Thị Chinh
Lớp:K45H2