1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Quản trị kinh doanh >

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỀ TÀI : “NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY TNHH FOREMART VIỆT NAM”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.68 KB, 61 trang )


nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khả năng

cạnh tranh của công ty

*Theo cách tiếp cận khả năng cạnh tranh ở tầm quốc gia

+ Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới (gọi tắt là

WEF). Theo định nghĩa của WEF thì khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả

năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững

vàng tương đối và các đặc trưng kinh tế khác (WEF-1997).

Như vậy khả năng cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết bằng

mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc đân và sự có mặt ( hay thiếu vắng) các yếu tố

quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã được

thực hiện. Cũng theo WEF thì các yếu tố xác định khả năng cạnh tranh được chia làm

8 nhóm chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các nhóm yếu tố xác định khả năng cạnh

tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:

Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế thế giới bao gồm các yếu tố thuế quan,

hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.

Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của chính phủ bao

gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, khả năng của Chính phủ, thuế và mức độ trốn

thuế, chính sách tài khoá.

Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng thực hiện

các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính đầy đủ và

tiết kiệm.

Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm khả năng phát triển công nghệ trong

nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển công nghệ

thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.

Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết cấu hạ

tầng khác.

Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và các yếu tố

quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.

Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề và năng

suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương trình xã

hội , quan hệ lao động trong một ngành.



6



Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể chế về

pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.

*Tiếp cận khả năng tranh ở cấp ngành, cấp công ty.

+ Quan điểm của M.Poter

Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được phản ánh trong các cuốn sách của

M.Poter, khảnăng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là năng chiếm lĩnh thị

trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế) của công ty đó. Với

cách tiếp cận này mỗi ngành dù là trong hay ngoài nước khả năng cạnh tranh được quy

định bởi các yếu tố sau:

- Số lượng các doanh nhgiệp mới tham gia.

- Sự có mặt của các sản phẩm thay thế

- Vị thế của khách hàng

- Uy tín của nhà cung ứng

Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh

Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp xây dựng

và lựa chọn chiến lược kinh doanh cạnh tranh phù hợp với trong giai đoạn, thời kỳ

phát triển thời kỳ phát triển của nền kinh tế.

1.2 Các nội dung của công tác nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

1.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh

1.2.1.1. Thị phần

Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm giữ trong tổng

dung lượng thị trường. Do đó thị phần của doanh nghiệp được xác định:



Doanh thu của doanh nghiệp

Thị phần của doanh nghiệp =



Tổng doanh thu toàn ngành

Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng

rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức động hoạt động

của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một mảng thị

trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh nghiệp một vị trí ưu

thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số

trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các đối thủ



7



cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả năng chiếm

lĩnh thị trường so với toàn ngành.

Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ ta dùng

chỉ tiêu thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so với đối thủ

cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay những điểm còn hạn

chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn giản, dễ hiểu nhưng nhược điểm của

nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và sát thực của đôí thủ.

1.2.1.2. Năng suất lao động

Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh và

khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao động ta có thể đánh

giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ công nghệ của doanh nghiệp.

1.2.1.3. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng

vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng hợp đánh

giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu được lợi

nhuận cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp. Căn cứ vào chỉ

tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình so

với đối thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao và được

đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất khả quan.

Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:



Tổng lợi nhuận

Tỷ suất lợi nhuận =



Tổng doanh thu

Chỉ tiêu này cho thấy nếu có 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng

lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng

của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp. Hiệu quả kinh doanh

của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Đã có quá nhiều đối thủ thâm nhập vào thị

trường của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng thị trường

để nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhằm mục đích nâng cao lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu

này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu. Hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là có hiệu quả. Điều này chứng tỏ khả



8



năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh nghiệp cần phát huy lợi thế cảu mình

một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn thâm nhập vào

thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do sức hút lợi nhuận cao.

1.2.1.4 . Uy tín của doanh nghiệp

Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn hàng,

nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của các

doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận .v.v. Nhưng để đạt được các mục tiêu

đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo được vị thế

của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy tín của doanh

nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì và phát triển

hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ yêu

cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy tín của doanh

nghiệp đó là “ con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó phải có một đội

ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân viên giỏi về tay nghề

và kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và nhiệt tình trong công

việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.

Trong nền kinh tế thị trường yếu tố nổi bật nhất để đánh giá khả năng cạnh tranh,

uy tín của doanh nghiệp đó là nhãn hiệu sản phẩm.

- Thiết kế nhãn hiệu sản phẩm: Khi xây dựng một sản phẩm, các nhà quản trị sẽ

lưu tâm đến rất nhiều đến nhãn hiệu sản phẩm, một nhãn hiệu sản phẩm hay và ấn

tượng góp phần không nhỏ vào sự thành công của sản phẩm, nó giúp phân biệt sản

phẩm của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh khác và là cộng cụ để doanh nghiệp

định vị sản phẩm trên thị trường mục tiêu. Khi thiết kế nhãn hiệu doanh nghiệp phải

xem xét đến các thành phần gồm: đặt tên sản phẩm, xây dựng biểu tượng(logo), khẩu

hiệu và hình ảnh cho nhãn. Đồng thời phải có chiến lược về nhãn hiệu đối với sản

phẩm của doanh nghiệp.

- Các giá trị tài sản nhãn hiệu: Tài sản nhãn hiệu là giá trị của một nhãn hiệu

của sản phẩm do uy tín của nhãn hiệu sản phẩm đó đem lại. Quản trị giá trị nhãn là

một trong các công việc mang tính chiến lược quan trọng nhất, nó được xem là một

trong những dạng tầm tiềm năng có giá trị cao. Trong những năm gần đây, khi các



9



nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, hình

thức khuyến mại định hướng vào gía là hình thức phổ biến được nhiều doanh nghiệp

áp dụng, điều này làm tổn thương nhiều doanh nghiệp.

1.2.1.5. Khả năng quản trị

Khả năng của nhà quản trị được thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược, hoạch định

hướng đi cho doanh nghiệp. Nhà quản trị giỏi phải là người giỏi về trình độ, giỏi về

chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng giao tiếp, biết nhìn nhận và giải quyết các công

việc mộ cách linh hoạt và nhạy bén, có khả năng thuyết phục để người khác phục tùng

mệnh lệnh của mình một cách tự nguyện và nhiệt tình.Biết quan tâm, động viên,

khuyến khích cấp dưới làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điều đó sẽ tạo nên sự đoàn

kết giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản trị còn phải là người

biết nhìn xa trông rộng, vạch ra những chiến lược kinh doanh trong tương lai với cách

nhìn vĩ mô,hợp với xu hướng phát triển chung trong nền kinh tế thị trường. Nhà quản

trị chính là người cầm lái con tầu doanh nghiệp, họ là nhứng người đứng mũi chịu sào

trong mỗi bước đi của doanh nghiệp.Họ là những người có quyền lực cao nhất và trách

nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ chính là nhứng người xác định hướng đi

và mục tiêu cho doanh nghiệp. Vì vậy mà nhà quản trị đóng một vai trò chủ chốt trong

sự phát triển của doanh nghiệp.

1.2.2 Các nhân tố cấu thành khả năng cạnh tranh.

1.2.2.1. Nhân tố nguồn lực sản xuất sản phẩm:

Các nhân tố thuộc nhóm này bao gồm: nguồn vốn, công nghệ, nhân lực..

Nguồn vốn và công nghệ:

Các nhân tố này là nhân tố biến động và ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của

Doanh nghiệp nói chung và khả năng cạnh tranh sản phẩm của Doanh nghiệp nói riêng.

Với nguồn tài chính lớn, Doanh nghiệp sẽ có được những lợi thế ban đầu trong hoạt

động sản xuất kinh doanh của mình. Không một Doanh nghiệp nào lại không muốn sản

xuất ra các sản phẩm trên một dây chuyền công nghệ hiện đại để tối ưu hoá sản xuất,

nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh sản

phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Đồng thời dưới sự phát triển nhanh chóng của khoa

học kỹ thuật công nghệ trên thế giới đòi hỏi các Doanh nghiệp không ngừng thu thập

thông tin về khẳ năng ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất sản phẩm.

Nguồn nhân lực:



10



Bất kỳ một Doanh nghiệp nào cũng vậy, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng,

đảm bảo sự thành công của mình. Nguồn nhân lực trong công ty sẽ được chia làm các

cấp khác nhau, với chức năng và nhiệm vụ riêng. Cấp quản trị viên cấp cao sẽ tạo ra

hướng đi cho sản phẩm thông qua việc đưa ra các chiến lược phát triển của Doanh

nghiệp. Cấp thấp hơn sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh sản phẩm thông qua việc nghiên

cứu và tạo gia những giá trị mới cho sản phẩm nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản

phẩm. Đội ngũ công nhân lao động cũng sẽ tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm thông

qua các yếu tố về năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm..

1.2.2.2 Nhân tố về việc tổ chức sản xuất gia công sản phẩm:

Có được những nguồn lực tốt là điều kiện tốt cho mọi doanh nghiệp nhưng để thành

công thì chưa đủ, sự phối hợp hợp lý, hài hoà trong sản xuất, kinh doanh sẽ tạo ra được lợi

thế cho Doanh nghiệp, góp phần đảm bảo sản xuất ra sản phẩm có sức cạnh tranh.

Khả năng tổ chức sản xuất, gia công sản phẩm thể hiện thông qua sự phân công,

sắp xếp hợp lý các nguồn lực, sự kiểm tra đánh giá, nhằm phát hiện những sản phẩm

không đảm bảo, tránh thất thoát, lãng phí trong quá trình sản xuất kinh doanh... nâng

cao sức cạnh tranh trực tiếp cho sản phẩm.

1.2.2.3 Nhân tố thị trường và kênh tiêu thụ:

Sức cạnh tranh sản phẩm sẽ được nâng cao khi mà sản phẩm sản xuất ra luôn

đến và được thông tin nhanh chóng tới thị trường nhanh hơn đối thủ cạnh tranh. Việc

nghiên cứu về thị trường và quyết định đưa ra những chiến lược phân phối hợp lý đối

với từng thị trường sẽ đảm bảo sản phẩm của Doanh nghiệp tiếp cận với các thị trường

một cách hợp lý. Mọi thông tin về sản phẩm sẽ được cung cấp cho khách hàng, từ đó

khách hàng sẽ nhanh chóng đưa ra quết định mua sản phẩm của Doanh nghiệp.

1.2.2.4 Nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô:

Sẽ là có lợi thế nếu như các tác động của môi trường vĩ mô tác động tích cực tới

hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, sự phù hợp của chính sách luật

pháp, sự ổn định của nền kinh tế nước nhà,.. sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của

công ty và tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của công ty.

Nền kinh tế thị trường của một nước phát triển, với các hệ thống quản lý chặt

chẽ sẽ tạo điều kiện cho kinh tế thương mại phát triển nhanh chóng, sự quan tâm, lãnh

đạo của nhà nước cầm quyền sẽ tạo ra một môi trường ổn định, một nền kinh tế với cơ



11



sở hạ tầng phát triển, sản xuất và lưu thông phát triển. Những yếu tố đó sẽ tạo ra một

cơ chế hoạt động có hiệu quả cho mọi thành phần kinh tế, cho mọi Doanh nghiệp và

tạo ra một môi trường cạnh tranh thông thoáng, có lợi.

1.2.3 Các công cụ cạnh tranh

1.2.3.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.

Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm thể

hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với

công dụng lợi ích của sản phẩm. Nếu như trước kia giá cả được coi là quan trọng nhất

trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.

Khi có cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và thoả mãn

được nhu cầu của người tiêu dùng thì họ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Nhất là trong

nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất, thu nhập của người lao động

ngày càng được nâng cao, họ có đủ điều kiện để thoả mãn nhu cầu của mình, cái mà họ

cần là chất lượng và lợi ích sản phẩm đem lại. Nếu nói rằng giá cả là yếu tố mà khách

hàng không cần quan tâm đến là hoàn toàn sai bởi giá cả cũng là một trong những yếu tố

quan trọng để khách hàng tiêu dùng cho phù hợp với mức thu nhập của mình. Điều mong

muốn của khách hàng và của bất cứ ai có nhu cầu mua hay bán là đảm bảo được hài hoà

giữa chất lượng và giá cả.

1.2.3.2. Cạnh tranh bằng giá cả.

Với một mức giá ngang bằng với giá thị trường: giúp doanh nghiệp đánh giá

được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm giá mà chất lượng sản

phẩm vẫn được đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao và

lợi sẽ thu được nhiều hơn.

Với một mức giá thấp hơn mức giá thị trường: chính sách này được áp dụng khi

cơ số sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hoá lớn, thu hồi vốn và lời nhanh.

Không ít doanh nghiệp đã thành công khi áp dụng chính sách định giá thấp. Họ chấp

nhận giảm sút quyền lợi trước mắt đến lúc có thể để sau này chiếm được cả thị trường

rộng lớn, với khả năng tiêu thụ tiềm tàng. Định giá thấp giúp doanh nghiệp ngay từ

đầu có một chỗ đứng nhất định để định vị vị trí của mình từ đó thâu tóm khách hàng

và mở rộng thị trường.



12



Với chính sách định giá cao hơn giá thị trường: là ấn định giá bán sản phẩm cao

hơn giá bán sản phẩm cùng loại ở thị trường hiện tại khi mà lần đầu tiên người tiêu

dùng chưa biết chất lượng của nó nên chưa có cơ hội để so sánh, xác định mức giá của

loại sản phẩm này là đắt hay rẻ chính là đánh vào tâm lý của người tiêu dùng rằng

những hàng hoá giá cao thì có chất lượng cao hơn các hàng hoá khác. Doanh nghiệp

thường áp dụng chính sách này khi nhu cầu thị trường lớn hơn cung hoặc khi doanh

nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, hoặc khi bán những mặt hàng quý hiếm

cao cấp ít có sự nhạy cảm về giá.

1.2.3.3. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối.

Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc lực bởi nó

hạn chế được tình trạng ứ đọng hàng hoá hoặc thiếu hàng. Để hoạt động tiêu thụ của

doanh nghiệp được diễn ra thông suốt, thường xuyên và đầy đủ doanh nghiệp cần phải

lựa chọn các kênh phân phối nghiên cứu các đặc trưng của thị trường, của khách hàng.

Từ đó có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của

khách hàng. Chính sách phân phối sản phẩm hợp lý sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn,

thúc đẩy tiêu thụ, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông thường kênh

phân phối của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:

+ Kênh ngắn: Người sản xuất => Người bán lẻ => Người tiêu dùng

+ Kênh cực ngắn: Người sản xuất => Người tiêu dùng

+ Kênh dài: Người sản xuất=>Người buôn bán=>Người bán lẻ=>Người tiêu dùng

+ Kênh cực dài: Người sản xuất=>Đại lý=> Người buôn bán=> Người bán lẻ=>

Người tiêu dùng.

+ Kênh rút gọn: Người sản xuất=>Đại lý=> Người bán lẻ=> Người tiêu dùng.

1.2.3.4. Cạnh tranh bằng chính sách Maketing

Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chính sách maketing đóng

một vai trò rất quan trọng bởi khi bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh

nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng đang có xu hướng

tiêu dùng những sản phẩm gì?, thu thập thông tin thông qua sự phân tích và đánh giá

doanh nghiệp sẽ đi đến quyết định sản xuất những gì ? kinh doanh những gì mà khách

hàng cần, khách hàng có nhu cầu. Trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh thì doanh

nghiệp thường sử dụng các chính sách xúc tiến bán hàng thông qua các hình thức



13



quảng cáo, truyền bá sản phẩm đến người tiêu dùng. Kết thúc quá trình bán hàng, để

tạo được uy tín hơn nữa đối với khách hàng, doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt động

dịch vụ trước khi bán, trong khi bán và sau khi bán.

Như vậy chính sách maketing đã xuyên suốt vào quá trình hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp, nó vừa có tác dụng chính và vừa có tác dụng phụ để hỗ trợ các

chính sách khác. Do vậy chính sách maketing không thể thiếu được trong bất cứ hoạt

động của doanh nghiệp.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp thương mại.

1.3.1 Các nhân tố chủ quan

Các nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc yếu tố bên trong doanh nghiệp. Các

yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh

tranh của Công ty. Bởi vậy mà nó được coi là các yếu tố cấu thành khả năng cạnh

tranh của Công ty.

1.3.1.1 Khả năng về tài chính.

Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ

hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét tính toán đến

tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực lớn về tài chính sẽ

rất thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư, trong mua sắm đổi mới công nghệ và

máy móc cũng như có điều kiện để đào tạo và đãi ngộ nhân sự. Những thuận lợi đó sẽ

giúp doanh nghiệp nâng cao được trình độ chuyên môn tay nghề cho cán bộ, nhân

viên, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí để nâng cao sức cạnh tranh cho

doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nghiệp nào yếu kém về tài chính sẽ không có điều

kiện để mua sắm, trang trải nợ và như vậy sẽ không tạo được uy tín về khả năng thanh

toán và khả năng đáp ứng những sản phẩm có chất lượng cao đối với khách hàng. Làm

cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không tiến triển được và có nguy cơ bị

thụt lùi hoặc phá sản. Như vậy khả năng tài chính là yếu tố quan trọng đầu tiên để

doanh nghiệp hình thành và phát triển.

1.3.1.2. Nguồn lực và vật chất kỹ thuật



14



Nguồn lực vật chất kỹ thuật sẽ phản ánh thực lực của doanh nghiệp đối với thủ

cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai thác trong quá trình hoạt

động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bởi vì:

Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị máy móc,

công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ được bảo toàn về

chất lượng khi đến tay người tiêu dùng. Có hệ thống máy móc hiện đại sẽ thúc đẩy

nhanh qua trình tiêu thụ hàng hoá, tăng nhanh vòng quay về vốn, giảm bớt được khâu

kiểm tra về chất lượng hàng hoá có được bảo đảm hay không. Nếu xét về công nghệ

máy móc có ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm và như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá

bán của doanh nghiệp thương mại.

1.3.2. Các nhân tố khách quan

Là hệ thống toàn bộ các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, có liên quan và ảnh

hưởng đến quá trình tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp. Các yếu tố

khách quan bao gồm:

1.3.2.1. Nhà cung cấp

Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm bảo cho

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành ổn định theo kế hoạch đã định

trước. Trên thực tế nhà cung cấp thường được phân thành ba loại chủ yếu: loại cung

cấp thiết bị, nguyên vật liệu, loại cung cấp nhân công, loại cung cấp tiền và các dịch

vụ ngân hàng, bảo hiểm. Như vậy mỗi doanh nghiệp cùng một lúc có quan hệ với

nhiều nguồn cung cấp thuộc cả ba loại trên.

1.3.2.2. Khách hàng

Khách hàng là những người đang mua và sẽ mua hàng của doanh nghiệp. Đối với

doanh nghiệp khách hàng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất đối với sự tồn tại và

phát triển của doanh nghiệp. Tính chất quyết của khách hàng thể hiện ở các mặt sau:

Khách hàng quyết định hàng hoá của doanh nghiệp được bán theo giá nào? Trên

thực tế doanh nghiệp chỉ có thể bán với giá mà người tiêu dùng chấp nhận Khách hàng

quyết định doanh nghiệp bán sản phẩm như thế nào? Phương thức bán hàng và

phương thức phục vụ khách hàng do khách hàng lựa chọn, vì trong nền kinh tế thị

trường người mua có quyền lưạ chọn theo ý thích của mình và đồng quyết định



15



phương thức phục của người bán. Điều này cho thấy tính chất quyết định của khách

hàng làm cho thị trường chuyển từ thị trường người bán sang thị trường người mua,

khách hàng trở thành thượng đế. Do vậy doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi

yếu tố khách hàng, khách hàng có thể ganh đua với doanh nghiệp bằng cách yêu cầu

chất lượng sản phẩm cao hơn, hoặc ép giảm giá xuống, mặt khác khách hàng còn làm

cho các đối thủ cạnh tranh chống chọi lại nhau và dẫn đến làm tổn hao đến làm tổn hao

đến lợi nhuận của doanh nghiệp .

1.3.2.3 Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn

Doanh nghiệp luôn phải đối phó với hàng loạt các đối thủ cạnh tranh. Vấn đề

quan trọng ở đây là không được coi thường bất kỳ đối thủ nào, nhưng cũng không nên coi

đối thủ là kẻ địch. Cách xử lý khôn ngoan nhất không phải là hướng mũi nhọn vào đối thủ

của mình mà ngược lại vừa phải xác định, điều khiển và hoà giải, lại vừa phải hướng suy

nghĩ và sự quan tâm của mình vào khách hàng có nghĩa là mình đã thành công một phần

trong cạnh tranh. Mặt khác cũng nên quan tâm tới việc dự đoán trong tương lai và định

hướng tới khách hàng. Trên thực tế cho thấy cạnh tranh có thể diễn ra trên nhiều mặt khác

nhau nhưng có thể nói cạnh tranh với nhau chủ yếu là khách hàng.

1.3.2.4 Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế.

Những sản phẩm thay thế cũng là một trong các lực lượng tạo nên sức ép cạnh

tranh lớn đối với các doanh nghiệp cùng nghành. Sự ra đời của sản phẩm mới là một

tất yếu nhằm đáp ứng biến động của nhu cầu của thị trường theo hướng ngày càng đa

dang, phong phú. Chính nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay

thế. Các sản phẩm thay thế nó sẽ có ưu thế hơn và sẽ dần thu hẹp thị trường của sản

phẩm thay thế.



16



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

×