Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.11 KB, 96 trang )
Thị trường BĐS có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: xây
dựng, ngân hàng, môi trường... nên việc mở rộng và phát triển thị trường BĐS
sẽ góp phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa các ngành. Đồng thời nâng cao
trình độ xã hội hoá trong sản xuất kinh doanh, tạo nhiều công ăn việc làm cho
người lao động. Trên thị trường mọi chủ thể tham gia có điều kiện tiếp xúc và
mở rộng mối quan hệ với các chủ thể thuộc các ngành, các lĩnh vực khác
Nhìn chung, thị trường BĐS Việt Nam những năm qua từ 2008 đến
2012 đã có những bước phát triển nhất định, phần nào đáp ứng được nhu cầu
giao dịch BĐS của nền kinh tế trong quá trình đất nước bước vào giai đoạn
đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Những mặt tồn tại:
Thị trường bất động sản sau một thời gian phát triển khá cao đã bắt
đầu bộc lộ những khiếm khuyết và chưa thực sự ổn định, còn tồn tại nhiều bất
cập, cụ thể:
Công tác quy hoạch đất, quy hoạch đô thị còn nhiều bất cập.
Công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị còn nhiều
bất cập chưa bắt kịp với sự phát triển chung của toàn xã hội, tình hình thực tế
lại cho thấy rằng quy hoạch phát triển khu dân cư thực hiện còn dàn trải, thiếu
quy hoạch tổng thể, thiếu quy hoạch chi tiết mang tính dài hạn do đó thường
xuyên phải điều chỉnh.
Chính vì vậy nâng cao chất lượng quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch
đầu tư phát triển BĐS là nhiệm vụ trong tâm xuyên suốt của Chính Phủ nói
chung và của ngành xây dựng nói riêng. Nhà nước chủ động toàn bộ thị
trường đất đai sơ cấp, điều tiết thị trường đất đai thứ cấp, bảo đảm sử dụng
đúng mục đích theo quy hoạch đã được xét duyệt. Công khai, minh bạch
trong quản lý đất đai (từ việc giao đất, cho thuê đất đến việc bồi thường, hỗ
25
trợ, tái định cư khi thu hồi đất). Xây dựng và hoàn thiện hệ thống đăng ký
BĐS thống nhất, công khai hóa hoạt động kinh doanh BĐS và thông tin về thị
trường BĐS;
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, quy hoạch đất đai, kiến trúc, xây
dựng từ trung ương xuống địa phương, tăng cường năng lực cho bộ máy tổ
chức và cán bộ quản lý nhà nước về quy hoạch đất đai, quy hoạch đô thị, đẩy
mạnh xây dựng những đề án có tầm nhìn dài hạn, quy hoạch tổng thể và chi
tiết cho từng vùng, công bố công khai rộng rãi những quy hoạch mang tầm
quốc gia cho dân chúng được biết, tránh hiện tượng quy hoạch treo gây lãng
phí cho nhà nước và ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Tăng cường
thực thi các công cụ giám sát để thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra,
kiểm tra việc thực thi pháp luật. Xây dựng chế tài xử phạt và xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai, xây dựng và quản lý đất đai;
Mang nặng yếu tố đầu cơ và tâm lý đám đông
BĐS là một lĩnh vực đầu tư đòi hỏi phải có nguồn vốn trung, dài hạn
vững mạnh, một kế hoạch tài chính ổn định. Tuy nhiên, trên thực tế ở nước ta,
bên cạnh nguồn vốn đầu tư trung dài hạn từ ngân hàng hay từ vốn đối ứng của
khách hàng, nguồn vốn đầu tư ngắn hạn (nguồn vốn “nóng”, có thời hạn dưới
1 năm) đây chính là các nguồn vốn của những nhà đầu cơ, muốn đầu tư trong
thời gian ngắn nhằm tranh thủ kiếm lợi nhuận, cũng đổ vào thị trường BĐS,
thậm chí có những giai đoạn nguồn vốn “nóng” còn lấn át nguồn vốn trung và
dài hạn trong việc chi phối sự vận động của thị trường BĐS, tạo ra những
hoạt động lướt sóng, gây nên những cơn sốt nóng trên thị trường này, đồng
thời góp phần chủ yếu tạo ra “bong bóng”, tăng xác suất rủi ro trên thị trường
tài chính. Đặc điểm quan trọng nhất của nguồn vốn “nóng” là tham gia vào thị
trường rất nhanh, song có thể rút ra khỏi thị trường cũng rất nhanh chóng. Vì
26
vậy, một trong những giải pháp vốn cho thị trường BĐS lại chính là minh
bạch hóa việc quản lý, giám sát cho được nguồn đầu tư ngắn hạn vào thị
trường BĐS là một yêu cầu khách quan và cần thiết.
Do thiếu tính công khai minh bạch nên thị trường BĐS đã và đang chịu
tác động của tin đồn, tâm lý đám đông, và của các “chiêu” làm giá, tạo sóng
của giới đầu cơ… Bên cạnh đó, xu thế chung của giá cả BĐS là tăng liên tục,
khi đã được thổi giá thì thậm chí tăng gấp vài lần đến hàng chục lần sau một
thời gian không dài, cung BĐS luôn ở trạng thái thiếu trong khi cầu BĐS rất
lớn đã tạo sức hút cho các nhà đầu tư tìm kiếm các khoản siêu lợi nhuận trong
ngắn hạn.
Mặt khác, một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam có tâm lý đám
đông, đầu tư theo phòng trào, khi thấy thị trường tăng trưởng nóng cũng cố
gắng tập trung các nguồn vốn sẵn có, những nguồn vốn tích lũy từ trước, kể
cả vay mượn từ ngân hàng… để tranh thủ đầu tư vào bất động sản, với tâm lý
đầu cơ lượt sóng tranh thủ tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn đã góp phần tạo
ra bóng bóng cho thị trường bất động sản, đây chính là bài học quý báu đối
với những nhà đầu tư vào thị trường bất động sản trong tương lai.
Dịch vụ tư vấn, môi giới BĐS còn mang tính tự phát
Các hoạt động dịch vụ môi giới BĐS hình thành và phát triển tự phát.
Song song với các tổ chức có đăng ký ngành nghề môi giới nhà đất, hàng loạt
các hộ gia đình, nhóm người, cá nhân tự treo biển quảng cáo môi giới nhà đất.
Chức năng chủ yếu của các trung tâm môi giới nhà đất hiện nay chủ yếu là
kết nối giữa người mua và người bán mà chưa cung cấp và phân tích thông tin
cần thiết về BĐS. Hệ thống thông tin về thị trường BĐS còn mỏng, việc cung
cấp thông tin chưa minh bạch, chưa cụ thể, chưa công khai và tổ chức dịch vụ
cho thị trường còn nhiều hạn chế. Việc mua bán chủ yếu được thực hiện theo
hình thức trao tay, không đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền vừa
27
gây thất thu cho cơ quan quản lý nhà nước vừa dễ là nguyên nhân gây ra tranh
chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai.
Thị trường BĐS còn diễn ra nhiều nghịch lý, bất cập. Số giao dịch
ngầm, không đăng ký với cơ quan nhà nước chiếm khoảng hơn 70%. Hầu hết
những người dân đều trả lời là do thủ tục hành chính của các đơn vị liên quan
có quá nhiều rườm rà, phiền phức, mất nhiều thời gian và chi phí. Các hoạt
động dịch vụ môi giới BĐS hình thành và phát triển tự phát.
Cung – cầu bất động sản còn nhiều bất cập chưa thực sự đáp
ứng được quy luật của thị trường.
Ngày nay BĐS trước hết là hàng hóa nó được vận hàng theo các quy
luật cơ bản của kinh tế thị trường. Việc tạo ra BĐS và hình thành giá BĐS
luôn luôn bao gồm cả các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội bên cạnh các nhân
tố nội tại như qui luật cung - cầu, qui luật giá trị. TT BĐS là khách quan,
nhưng đầy rẫy rủi ro và bao gồm nhiều cơ hội thu lợi tức lớn, đặc biệt là ở
một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Tuy nhiên thị trường bất động sản ở Việt Nam trong những năm gần
đây đặc biệt từ năm 2008 đến nay đang sa lầy trong một nghịch lý là cơ cấu
sản phẩm hàng hóa không phù hợp với nhu cầu sử dụng, thiếu hàng hóa có
quy mô vừa và nhỏ, có giá cả phù hợp với đa số nhu cầu của người dân. Các
doanh nghiệp kinh doanh BĐS đang sản xuất cái mình có chứ chưa đi sâu tìm
hiểu sản xuất cái mà người tiêu dùng cần. Khi mà khả năng đầu cơ đến hạn,
dù nguồn cầu dồi dào nhưng thị trường vẫn không thể thanh khoản, bởi nhu
cầu của người dân hiện nay là trên dưới 1 tỷ đồng/căn hộ nhưng thị trường lại
chủ yếu là căn hộ từ 2-3 tỷ đồng, nhu cầu người dân chủ yếu là nhà ở xã hội
trong khi các công ty kinh doanh lại tập trung chủ yếu vào nhà ở thương mại.
Vì thế, thị trường rơi vào khủng hoảng vừa thừa vừa thiếu. Tình trạng căn hộ
tồn kho thì rất nhiều, không thể bán được trong khi đại bộ phân người dân có
28
nhu cầu về nhà ở thức sự lại không có khả năng tiếp cận thị trường này điều
này cho thấy thị trường BĐS phát triển chưa đảm bảo sự cân đối, các nhà đầu
tư chỉ tập trung quan tâm tới các dự án nhà ở, dự án khu đô thị mới để bán
cho những người có thu nhập cao. Trong khi đó, các dự án nhà ở để bán trả
góp hoặc cho thuê dành cho các đối tượng có thu nhập thấp chưa được quan
tâm đúng mức.
Giá BĐS, đặc biệt là giá nhà ở còn cao so với mặt bằng thu nhập của
người dân cũng như mức phát triển của nền kinh tế từ đó gây ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tạo lập nhà ở của đại bộ phận người lao động thu nhập thấp,
người nghèo tại khu vực đô thị gặp nhiều khó khăn.
Điều đó cho thấy, không chỉ người thu nhập thấp mà những người có
thu nhập trung bình cũng khó có cơ hội sở hữu nhà ở. Đây là một nghịch lý đã
tồn tại trong một thời gian khá dài trong khi các cơ quan chức năng vẫn đang
tìm kiếm những giải pháp thích hợp nhất cho sự phát triển của một thị trường
đầy tiềm năng như thị trường BĐS theo đúng quy luật cơ bản của kinh tế thị
trường đó là quy luật cung – cầu.
2.1.2 Xu hướng phát triển thị trường BĐS Việt Nam từ nay đến
năm 2015 và các năm tiếp theo.
Theo nghiên cứu của tác giả thì có 03 khả năng xảy ra đối với thị
trường bất động sản từ nay đến năm 2015 đó là:
Kịch bản thứ nhất, là kịch bản khó xảy ra nhất nhưng được mong
muốn nhất, đó là thị trường khởi sắc. Điều kiện của kịch bản này là tình hình
kinh tế thế giới ổn định, các nước đồng tiền chung châu Âu vượt qua khỏi
khủng hoảng nợ công. Đó là tình hình kinh tế vĩ mô trong nước tốt đẹp, tăng
trưởng cao, lạm phát tiếp tục được kiềm chế, lãi suất về mức 10%/năm. Một
số công cụ tài chính bất động sản ra đời, chẳng hạn quỹ tín thác bất động sản,
quỹ tiết kiệm tương hỗ,… Khi đó, thị trường sẽ qua điểm đáy và khởi sắc,
29
năm 2012 sẽ là giai đoạn thử lửa, sàng lọc các doanh nghiệp bất động sản,
những doanh nghiệp có sức cạnh tranh và cấu trúc được danh mục đầu tư sẽ
có khả năng vượt qua giai đoạn gian khó này để mơ về một tương lai tươi
sáng và ngược lại sẽ có nhiều doanh nghiệp kinh doanh BĐS cũng sẽ phải
thua lỗ và phá sản. Một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn tài chính hóa thị
trường bất động sản bắt đầu. Tuy nhiên, vì giả định có nhiều yếu tố tốt đẹp
cùng xảy ra nên khả năng có phương án này là thấp.
Kịch bản thứ hai, kịch bản không ai mong muốn xảy ra nhất, đó là
không có bất cứ điều gì của kịch bản một xảy ra. Các doanh nghiệp bất động
sản sẽ gặp khó khăn lớn. Thị trường sẽ suy giảm trầm trọng. Có thể có một
làn sóng xấu sẽ xảy ra, các dự án sẽ tiếp tục bị ngừng trệ. Nhiều công trình sẽ
tiếp tục bị đóng băng. Nếu kịch bản này xảy ra, các nhà đầu tư thứ cấp sẽ rời
bỏ thị trường bất động sản và thị trường bất động sản sẽ cần một thời gian khá
dài để tái phục hồi.
Kịch bản thứ ba, kịch bản dễ xảy ra nhất. Đó là tình hình sẽ tiếp tục
như hiện nay. Các chính sách tiếp tục được nghiên cứu, các doanh nghiệp sẽ
tiếp tục hoạt động cầm chừng, các nhà đầu tư sẽ tiếp tục hy vọng, một số nhà
đầu tư sẽ thu hẹp sản xuất.
Tuy nhiên dù xảy ra kịch bản nào thì cũng sẽ xuất hiện xu hướng chung
nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đó là;
Đẩy mạnh việc tiêu thụ các sản phẩm bất động sản tồn kho
Mục tiêu lớn nhất của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản hiện
nay là tăng cường việc bán các sản phầm tồn kho hiện có nhằm cơ cấu lại
danh mục đầu tư, giảm tỷ lệ đầu tư vào thị trường bất động sản. Lượng hàng
tồn kho bất động sản hiện nay khá lớn, theo tính toán sơ bộ thị hiện nay thị
trường bất động sản đang dư thừa khoảng 70.000 căn hộ tập trung chủ yếu tại
30
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đây là lượng tồn kho khá lớn, gần 1 triệu
tỷ đồng đang bị ngâm tại đây, hàng loạt các giải pháp được tháo gỡ nhằm
giảm nhanh nhất lượng hàng tồn kho bất động sản, bên cạnh việc xem xét
quy mô đầu tư, phân khúc sản phẩm, tiến độ đầu tư, việc tháo gỡ cho thị
trường BĐS chính là giúp hàng loạt các ngành nghề sản xuất đang khó khăn
nay có thể phát triển trở lại như từ xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, đồ nội
thất, đồ điện…Chính vì lý do đó các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản
hiện nay phải tự cơ cấu lại sản phẩm, cung cấp sản phẩm phù hợp với nhu cầu
của thị trường nhằm đẩy nhanh số lượng hàng tồn kho, và giúp cho thị trường
BĐS có tính thanh khoản cao hơn so với thời gian trước.
Việc lượng hàng tồn kho chưa thể kết nối với nhu cầu của người dân có
nhiều nguyên nhân nhưng trong đó phụ thuộc chủ yếu sự phát triển kinh tế
thời gian vừa qua là chưa mạnh. Do ảnh hưởng bởi sự suy thoái kinh tế toàn
cầu tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu giảm so với các năm trước nên tổng
cầu đã giảm do đó gia tăng tổng cầu cũng là biện pháp giảm tồn kho bất động
sản.
Tái cấu trúc thị trường bất động sản phù hợp với tình hình thực tế
Trước mắt dựa trên tình hình thực tế hiện nay, Chính phủ sẽ ưu tiên
thực hiện chủ động việc tái cấu trúc thị trường tiền tệ và hệ thống các ngân
hàng thương mại, việc này sẽ tạo giải pháp vốn hợp lý cho thị trường bất động
sản trong tương lai.
Trong bối cảnh này, hãy nhìn vào sự trầm lắng của thị trường bất động
sản dưới con mắt tích cực hơn. Thị trường đang chuyển mình để trở thành
một thực thể lành mạnh hơn, khỏe hơn, hữu ích hơn và vì quyền lợi của đại đa
số những người dân chưa có nhà ở. Quá trình chuyển mình này chính là quá
trình tái cấu trúc lại thị trường do các nhà đầu tư tự thực hiện để đưa thị
trường bất động sản vượt qua khó khăn.
31
Công cuộc kiềm chế lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô vẫn còn gặp nhiều
khó khăn và phức tạp trong khung cảnh kinh tế thế giới đang biến động theo
xu hướng tiêu cực. Đây là những tác động xấu tới thị trường Việt Nam mà
cần tập trung để dự báo nhằm giảm nhẹ khó khăn. Sự phục hồi của một thị
trường bất động sản sẽ được tái cấu trúc mới là mục tiêu mang tính dài hạn.
Mặt tích cực của thị trường bất động sản hiện nay là giá cả bất động sản
đang quay trở về giá trị thực của nó. Đây là thời điểm thích hợp để tái cấu
trúc doanh nghiệp, tái cơ cấu đầu tư, đẩy mạnh hợp tác, liên kết, liên doanh
giữa các doanh nghiệp trong nước để tồn tại và phát triển, đồng thời là cơ hội
để doanh nghiệp có thực lực chuẩn bị quỹ đất đầu tư, nhận chuyển nhượng lại
dự án tốt để tiếp tục vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay.
Tóm lại, quá trình tái cấu trúc thị trường bất động sản nhanh hay chậm
còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố về tình hình kinh tế thế giới,
việc điều hành chính sách tiền tệ cũng như việc tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng thương mại hiện nay, hay việc tìm kiếm các giải pháp từ những nguồn
vốn mới cho thị trường bất động sản… sự khôn ngoan của nhà đầu tư cũng
như tầm nhìn dài hạn của các công ty kinh doanh bất động sản dựa vào quy
luật của thị trường căn cứ trên bài toán cung – cầu thực tế đối với thị trường
bất động sản.
2.2 Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tín dụng bất
động sản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.2.1 Những thuận lợi trong hoạt động tín dụng bất động sản của
các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, thì cho vay đối với lĩnh vực
bất động sản cũng là một trong những lĩnh vực cho vay mang lại nhiều lợi
nhuận và dĩ nhiên cũng tiềm ẩn rủi ro cho các ngân hàng thương mại, những
năm vừa qua đã cho chúng ta thấy nhận định này càng trở nên rõ nét. Tuy
32
nhiên, tùy vào từng thời điểm thị trường bất động sản nóng, lạnh khác nhau,
mà hoạt động tín dụng bất động sản của các ngân hàng sẽ có những rủi ro và
lợi thuận lợi khác nhau.
Hoạt động của ngân hàng thương mại trong cho vay đối với lĩnh vực
bất động sản phải chịu tác động của thị trường bất động sản. Do đó, những
thuận lợi đối với thị trường bất động sản sẽ là tiền đề phát triển tín dụng bất
động sản các ngân hàng đạt được hiệu quả. Những mặt thuận lợi trong hoạt
động tín dụng bất động sản phải được kể đến như sau:
Cơ sở pháp lý đối với thị trường bất động sản ở Việt Nam hiện nay
Tuy các thủ tục pháp lý của nước ta về thị trường bất động sản nói
chung và tín dụng bất động sản của các NHTM nói riêng vẫn còn nhiều bất
cập, tuy nhiên không vì thế mà phủ nhận những đóng góp của các văn bản
pháp lý này đối với thị trường BĐS , những thuận lợi về mặt pháp lý có thể
điểm qua như sau
● Hành lang pháp luật điều chỉnh thị trường bất động sản đã và đang
được minh bạch hóa với:
- Luật kinh doanh bất động sản ban hàng ngày 29/06/2006 có hiệu lực
thi hành từ 01/01/2007; Nghị định Chính Phủ sô 153/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành luật Kinh doanh bất động
sản; Thông tư 13/2008/TT-BXD ngày 21/05/2008 của Bộ Xây dựng hướng
dẫn thực hiện một số nội dung Nghị định 153/2007/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản.
Như vậy, Luật kinh doanh bất động sản ra đời năm 2006 đã thừa nhận
một thị trường bất động sản đang sôi động, tạo một hành lang pháp lý minh
bạch, góp phần giảm thiểu nhưng giao dịch ngầm vốn tồn tại lâu đời và đang
làm méo mó thị trường bất động sản.
33
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI tại kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Nhà ở. Luật Nhà
ở bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
Luật đất đai năm 2003 là Bộ luật nền tảng nhất, tuy còn nhiều bất cập
và đang được Quốc hội tiến hành sửa đổi trong năm 2012 nhưng cũng đã góp
phần quy định các quyền liên quan đến quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm
2003 đã tạo được sự đổi mới khá toàn diện của hệ thống pháp luật đất đai Việt
Nam trong đó các các điểm liên quan đến thị trường bất động sản hơn so với
các năm trước. Hiện nay Bộ luật này đang được Quốc hội thảo luận tiến hành
sửa đổi và có thể sẽ được thông qua và ban hành trong năm 2013.
● Hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng đang từng bước
được hoàn thiện.
Luật các tổ chức tín dụng 2010 đã được Quốc hội thông qua ngày
16/6/2010 và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Trong luật đã có
điều Về kinh doanh bất động sản. Mặt khác trong Trong Luật các TCTD
2010, tiêu chí phân biệt giữa ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng đã được
quy định rõ hơn trên cơ sở phạm vi hoạt động của hai loại hình này. Theo đó,
các TCTD phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi của cá nhân, không
được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Quy định
này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và tạo điều kiện để
một mặt giảm bớt rủi ro cho hệ thống TCTD, mặt khác cho phép các TCTD
phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác
của mình do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn so
với các ngân hàng thương mại là những tổ chức nhận tiền gửi của dân cư và
tham gia vào hệ thống thanh toán.
34
Cầu tín dụng đối với thị trường bất động sản
Thuận lợi lớn nhất đối với hoạt động tín dụng bất động sản tại các
NHTM Việt Nam hiện nay đó chính là cầu về tín dụng rất lớn. Không như ở
các nước phát triển, người dân có nhiều cách để tiếp cận được nguồn tín dụng
phục vụ cho thị trường bất động một cách dễ dàng do lãi suất thấp và các
nguồn vốn mang tính dài hạn, doanh nghiệp cũng dễ dàng huy động được vốn
bằng nhiều cách khác nhau như trái phiếu công trình, chứng chỉ bất động sản,
hoặc được ngân hàng đầu tư mở rộng cho vay sau khi tiến hành chứng khoán
hóa bằng chính tài sản đảm bảo của doanh nghiệp. Với thị trường tài chính
Việt Nam còn ở giai đoạn chưa phát triển cao các sản phẩm tín dụng còn rất
khiêm tốn, thị trường cầm cố thứ cấp chưa ra đời nên việc huy động vốn từ
các định chế tài chính khác là vô cùng khó khăn. Lợi thế này của các ngân
hàng thương mại lại càng rõ nét hơn đối với thị trường bất động sản. Hầu hết
các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản hiện nay ở Việt Nam đều sử dụng
nguồn tín dụng từ ngân hàng thương mại và rất khó khăn trong việc huy động
được các nguồn vốn khác. Có tới 80% vốn đầu tư, kinh doanh vào thị trường
bất động sản hiện nay là được lấy từ tín dụng của ngân hàng thương mại.
Thuận lợi tiếp theo là nhu cầu về nhà ở của đại bộ phận người dân Việt
Nam là rất lớn đặc biệt ở các khu vực đô thị với tâm lý ”an cư mới lập
nghiêp” ai cũng mong muốn được sở hữu một căn nhà cho mình, đây là một
nguồn khách hàng tiềm năng nếu biết cách cung cấp những sản phẩm tín dụng
bất động sản một cách hợp lý.
Thêm 01 lý do nữa để chứng tỏ sự thuận lợi của tín dụng ngân hàng
thương mại đối với thị trường bất động sản là, nhu cầu xây dựng ở Việt Nam
hiện nay rất lớn do cơ sở hạ tầng còn kém, hạ tầng kỹ thuật còn thô sơ do đó
cầu về tín dụng từ các ngân hàng để đầu tư, để kinh doanh thậm chí đầu cơ là
rất lớn.
35