Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.11 KB, 96 trang )
Yếu tố tiết kiệm của dân cư lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thu
nhập của dân cư, thói quen chi tiêu bằng tiền mặt và đặc biệt là sự ổn định của
nền kinh tế. Nếu nền kinh tế mất ổn định, giá trị đồng tiền luôn biến động thì
xu hướng chung của dân cư sẽ đổi các đồng tiền bản tệ ra các đồng tiền mạnh
(Ngoại tệ) hay cất trữ vàng bạc, mua bất động sản.. là những tài sản có tính ổn
định cao hơn.
Ngoài ra việc phân bố dân cư ở các vùng lãnh thổ khác nhau thì yếu tố
tâm lý, văn hoá và lối sống cũng khác nhau. Do đó, ngân hàng phải nắm bắt
được yếu tố tâm lý của dân từ đó để đưa ra các hình thức huy động vốn phù
hợp.
Hình 2.1 Tình hình tăng trưởng huy động và tăng trưởng tín dụng
60
50
40
Tang truong huy dong
30
Tang truong tin dung
20
10
0
2007
2008
2009
2010
2011
Aug-12
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong sự lưu thông tiền tệ của nền
kinh tế. Bên cạnh vai trò quan trọng này, tín dụng cũng gây ra sự mất cân đối
giữa tiền và hàng, tạo nên hậu quả lạm phát cao. Một trong những chỉ tiêu mà
41
các nhà điều hành chính sách tiền tệ quan tâm đó chính là tốc độ tăng trưởng
tín dụng, phản ảnh dư nợ tín dụng của toàn bộ nền kinh tế thời điểm hiện tại
so với trước đó là bao nhiêu phần trăm.
Những con số này cho thấy tính rủi ro trong tín dụng của hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam đã tăng mạnh trong 3 năm trở lại đây, nhất là vào
những tháng đầu năm 2011. Trong 4 tháng đầu năm, lượng tín dụng tăng
5,1% trong khi huy động vốn hầu như không tăng, dẫn tới chỉ số tín dụng trên
vốn huy động đạt mức khá cao (131%), hàm chứa nhiều rủi ro trong hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam.Mặc dù trong thông tư 13 có hiệu lực từ
tháng 10/2010 đã có những quy định về tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng huy động
đối với các ngân hàng là 80%, đối với các tổ chức tín dụng khác là 85%. Tuy
nhiên các tổ chức tín dụng đã không thực hiện được và cũng không có chế tài
nào xử lý nghiêm minh các tổ chức này.
Năm 2009, Việt Nam là nước có tỷ lệ cho vay trên huy động tiền gửi
trong khu vực cao thứ hai, xấp xỉ Hàn Quốc. Đến năm 2010 thì con số này
tăng cao đột biến lên trên 131%, cách khá xa so với mức trung bình dưới 80%
của các nước khác trong khu vực.
Hiện chưa có cơ quan nào thống kê chính xác tỷ lệ cho vay trên huy
động của ngân hàng Việt Nam là bao nhiêu. Số liệu của Ngân hàng Nhà nước
công bố về dư nợ và huy động 4 tháng đầu năm nay cho thấy thanh khoản vẫn
là vấn đề cần lưu ý.
Tình hình tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại
Việt Nam qua các năm từ 2008 đến 2012
Trong 10 năm qua, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân
cao của thế giới, xấp xỉ 32%, cao hơn so với tốc độ tăng GDP cùng thời kỳ,
khoảng 17%.
42
Sự tăng mạnh về vốn đầu tư vào Việt Nam từ 2005 - 2007 dẫn tới tăng trưởng
tín dụng của nền kinh tế đạt mức cao, khoảng 51% vào năm 2007.
Hậu quả là, tỷ lệ lạm phát trong năm 2007 - 2008 tăng vọt, so với năm
2007 tốc độ tăng giá tiêu dùng năm 2008 là 19,89%. Nhằm hạn chế đà tăng
giá thời điểm đó, bên cạnh 8 giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ,
NHNN đã có những biện pháp tiền tệ rất linh hoạt như tăng tỷ lệ dữ trữ bắt
buộc, thu tiền đồng về qua các nghiệp vụ thị trường mở… Chính những yếu
tố đó đã góp phần làm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2008 giảm, còn
khoảng 25%.
Tuy nhiên, một nguyên nhân khác khiến tăng trưởng tín dụng năm
2008 giảm là bởi ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ.
Triển vọng xấu về nền kinh tế trong tương lai khiến cho tâm lý ngại đầu tư
bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế vào lúc đó, các nhà sản xuất thu hẹp hoạt
động, các ngân hàng lo ngại nợ xấu nên đã hạn chế cho vay và tích cực thu
hồi các khoản nợ.
- Sang năm 2009, tốc độ tăng trưởng tín dụng được cải thiện đáng kể,
tăng 37,73% so với năm trước.
Trong năm này, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nới
lỏng nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng đồng thời tạo điều
kiện mở rộng tín dụng hiệu quả. Trong khi những tháng đầu năm 2009, tốc độ
tăng trưởng tín dụng là thấp thì từ cuối quý II trở đi, tốc độ tăng trưởng tín
dụng tăng cao. Cho đến cuối năm 2009, tăng trưởng tín dụng đã vượt quá
mức 25% theo kế hoạch (sau này được điều chỉnh lại thành 30%), vào khoảng
37,73% so với cuối năm 2008.
- Sang năm 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm so với tốc độ năm
2009, đạt khoảng 28%. Mặc dù mục tiêu chính sách tiền tệ năm 2010 do
43
NHNN đặt ra khá thận trọng, tăng trưởng tín dụng chung toàn Ngành đạt
25%. Tuy nhiên, kết quả tăng trưởng tín dụng thực tế đã lên tới con số 28%
- Sang năm 2011 Chính phủ ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế
lạm phát thì tăng trưởng tín dụng tăng khoảng hơn 11% so với 10,8 % lượng
vốn huy động.
- Tính đến ngày 20/8/2012, tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng
10,3% so với ngày 31/12/2011. Trong khi tăng trưởng tín dụng đạt 1,4% thì
tổng số dư tiền gửi tại các nhà băng đã tăng 11,23%. Như vậy lượng vốn các
ngân hàng huy động được tăng trưởng lại gấp hơn 10 lần đà tăng trưởng của
tín dụng. Nguyên nhân là các ngân hàng không thể đẩy được vốn ra nền kinh
tế do doanh nghiệp chưa giải quyết được hàng tồn kho cũng như nợ xấu.
Theo số liệu của IMF, tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR) vẫn ở mức
cao trong năm 2011. Tỷ lệ LDR của Việt Nam đã giảm từ mức 117% vào
tháng 1/2011 xuống 109% vào tháng 10/2011. Tuy nhiên, mức này vẫn tương
đương các mức của năm 2009 và năm 2010. Nếu tính cả lượng tín dụng mà
các ngân hàng tìm cách lách trần tín dụng (20%) và trần tỷ lệ tín dụng phi sản
xuất (16%) thông qua các hình thức khác như đầu tư và các khoản phải thu
khác thì tỷ lệ này có thể còn cao hơn.
2.3.2 Thực trạng dư nợ cho vay bất động sản của các ngân hàng
thương mại
Việt Nam không dễ biết chính xác dư nợ bất động sản của các ngân
hàng hiện nay. Bản thân các ngân hàng cũng không thể phân biệt rạch ròi thế
nào là tín dụng bất động sản hoặc là có biết nhưng cố tình che đậy.
Cho các tổ chức kinh tế vay để làm các công trình cơ sở hạ tầng; cho
doanh nghiệp sản xuất gạch ngói, tấm lợp, xi măng, sắt thép vay; cho người
dân vay sửa chữa, nâng cấp nhà ở... liệu có phải là hỗ trợ vốn cho lĩnh vực bất
động sản?
44
Hình 2.2 Dư nợ tín dụng bất động sản
250000
200000
150000
Du no tin dung BĐS
100000
50000
0
2008
2009
2010
2011
May-12
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Do không thể phân biệt, nên số dư nợ bất động sản mà các ngân hàng
báo cáo cho cơ quan quản lý khác nhau. Dựa trên báo cáo hàng tháng, hàng
quí, đôi khi hàng tuần hoặc theo yêu cầu đột xuất của các tổ chức tín dụng,
Ngân hàng Nhà nước tổng hợp số liệu tín dụng bất động sản.
Theo số liệu thống kê từ phía NHNN thì đến ngày 10/05/2012 thì dư nợ
tín dụng BĐS là 197.000 tỷ đồng đã giảm 7,5% so với cuối năm 2011. Và so
với dư nợ 10/6/2011 con số cho vay bất động sản của cả hệ thống được Thống
đốc NHNN công bố là 222.000 tỉ đồng giảm 13.000 tỉ đồng so với mức
235.000 tỉ đồng cuối năm 2010, như vậy dư nợ tín dụng bất động sản có xu
hướng giảm.
Tín dụng bất động sản chỉ chiếm 10% tổng tín dụng nói chung (tỷ trọng
bề nổi) đây là con số bề nổi, còn bề chìm không tính toán được. Dễ dàng
nhận thấy không có bất kỳ tổ chức tín dụng nào không cho vay bất động sản?
Chắc chắn 100% ngân hàng cho vay. Do đó khi tín dụng phi sản xuất bị siết
lại, các ngân hàng ngay lập tức gặp khó, nó thể hiện ở hai điểm. Trong bối
cảnh các ngân hàng đua nhau huy động vốn ở mức giá cao, cho vay phát triển
ồ ạt, tập trung khá nhiều vào BĐS và liên quan tới BĐS thì doanh nghiệp đi
vay phải chịu lãi cao là điều không có gì ngạc nhiên.
45
Vấn đề nằm ở chỗ, các ngân hàng ồ ạt cho vay, các doanh nghiệp nhắm
mắt đi vay bằng mọi giá để phát triển… đã dần tới tình trạng khi quả bóng
BĐS, quả bóng tài chính bì xì là lúc cả 2 phía, ngân hàng và doanh nghiệp
không có đường chống đỡ.
Khi đó, ngân hàng tiếp tục cho doanh nghiệp vay cũng khó mà siết nợ,
tịch biên tài sản, kiện phá sản… cũng không xong bởi số lượng doanh nghiệp
rơi vào tình trạng này quá nhiều, tài sản thế chấp chỗ có, chỗ không. Nếu có
thế chấp rất có thể cũng đã ở trong tình trạng bong bóng, trị giá 1 đồng nhưng
hiệu ứng bong bóng cùng với quá trình định giá sai biến nó thành 5-7 đồng.
Tình trạng ngân hàng gặp khó khăn, không trụ vững, cần trợ giúp, cần
tái cấu trúc… không phải chỉ riêng ở Việt Nam mà trong mấy năm gần đây
xảy ra rất nhiều trên thế giới. Tuy nhiên, mức độ đồng loạt rơi vào tình trạng
tệ hại với nợ xấu lên tới cả chục phần trăm (theo Fitch), khoảng 10 ngân hàng
yếu kém, bị kiểm soát đặc biệt… và hiếm ngân hàng nào được các tổ chức
quốc tế đánh giá tốt, là điều khác biệt với thế giới.
Các hợp đồng tín dụng bất động sản thông thường có kỳ hạn tối thiểu
12 tháng và giải ngân theo từng giai đoạn. Để giảm dư nợ phi sản xuất về
22% theo quy định của Ngân hàng nhà nước nhiều ngân hàng đã buộc phải
ngưng giải ngân các khoản vay còn lại dù đã ký kết. Một số ngân hàng khi
không có cách gì hạ được số dư nợ tuyệt đối, đã tìm cách tăng tín dụng chung,
tăng vốn huy động. Dễ hiểu vì sao hầu hết các ngân hàng cổ phần đều đã sử
dụng hết dư địa tăng trưởng tín dụng cả năm.
Cũng theo báo cáo của NHNN khi tất cả cùng chạy đua theo một
hướng, không phải ai cũng tới đích. Từ giữa tháng 6/2011, NHNN đã có danh
sách tám ngân hàng vẫn còn dư nợ phi sản xuất ở mức từ 31-37% tổng dư nợ,
trong đó có một ngân hàng trên 50%. Khi đến hạn, sáu ngân hàng ở TPHCM
đã không thể đáp ứng yêu cầu kéo cho vay phi sản xuất về mức quy định.
46
Với lãi suất đầu ra hiện nay, kinh doanh bất động sản không thể hiệu
quả. Tuy nhiên quan trọng hơn hiệu quả là tính thanh khoản của thị trường.
Đối với nhà sản xuất, không có gì đáng sợ bằng hàng hóa làm ra mà không
bán được. Với các chủ đầu tư dự án nhà đất, đất nền, biệt thự, căn hộ đang
không tìm được người mua. Nói một cách khác, đồng vốn đang “chết” trong
bất động sản, nhưng nó lại không “chết” với ngân hàng, bởi cứ đến hạn ngân
hàng đòi cả vốn lẫn lãi.
Những năm trước, các công ty bất động sản còn nhìn vào thị trường
chứng khoán để huy động vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu. Nay thì
kênh chứng khoán là cánh đồng cạn khô, không còn nước để dẫn cho vốn
chảy. Tất cả trông vào ngân hàng - kênh cung ứng vốn duy nhất còn lại cho
nền kinh tế. Vốn hỗ trợ cho bất động sản đã đưa ra rồi, nay nhà đất không bán
được, ngân hàng thu hồi nợ bằng gì?
Theo số liệu mà Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trích dẫn nguồn từ cơ
quan thuế cho biết thì từ đầu năm đến nay khoảng 30% doanh nghiệp có đăng
ký kinh doanh phá sản, giải thể, đóng cửa, tạm ngưng sản xuất. Trong số này
có một tỷ lệ không nhỏ các đơn vị bất động sản.
Tín dụng bất động sản đang ở nút thắt. Tăng trưởng tín dụng chung từ
31% trong năm 2010, nay tụt xuống 12% năm 2011 và đến cuối tháng 9/2012
mới chỉ dừng lại ở con số xấp xỉ 3%. Nhưng ngay cả trong mức giảm mạnh
và đột ngột này, tín dụng bất động sản cũng không có chỗ đứng.
Nó gần như bị ra rìa hoàn toàn, bằng chứng là dư nợ tuyệt đối bất động
sản giảm. Bung quá mạnh, rồi thắt quá chặt, với cách điều hành nguồn tín
dụng như thế, nếu không được tháo gỡ hợp lý ngay, hệ lụy bất động sản mà
nền kinh tế gánh chịu thật khó lường và còn rất lâu nữa mới có thể khắc phục
được.
47
Dư nợ cho vay bất động sản có tài sản đảm bảo
Trong tổng dư nợ của toàn nền kinh tế, có 72% dư nợ có tài sản bảo
đảm, trong đó có 66% là bất động sản; trong 4,9% nợ xấu theo báo cáo của
các ngân hàng, trên 80% có tài sản bảo đảm và trong số này có 57% là bất
động sản. Đã có 252.000 tỷ đồng nợ xấu được cơ cấu lại và đã xử lý được
12.000 tỷ đồng từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro. Nếu xử lý được khối tài
sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản thì việc xử lý nợ xấu sẽ có chuyển biến
nhanh chóng và tích cực.
Nợ quá hạn của ngân hàng sẽ trở thành nợ xấu và đặc biệt trở thành nợ
có khả năng mất vốn khi các tài sản bảo đảm có vấn đề. Một phần nguyên
nhân của vấn đề này là cơ chế xử lý tài sản bảo đảm còn bất cập. Hệ thống
ngân hàng cần sự hỗ trợ từ các cơ quan tiến hành tố tụng để xử lý đúng thời
gian, công bằng và đúng bản chất giao dịch. Tuy nhiên, tình trạng không xử
lý được tài sản bảo đảm còn xuất phát từ chính các tài sản này, như có tranh
chấp về sở hữu, bị bán cho bên thứ 3 hoặc được thế chấp nhiều lần...
Trong số 80% nợ xấu được bảo đảm bằng bất động sản, chưa rõ tình
trạng ra sao, như tỷ lệ nhà đất có thể xử lý được, có giấy tờ giả, vướng mắc về
sở hữu, không đăng ký giao dịch bảo đảm, không lập hợp đồng thế chấp… là
bao nhiêu. Từng có rất nhiều trường hợp, khi có nợ quá hạn, ngân hàng đi
kiểm tra tình trạng tài sản bảo đảm mới phát hiện tại địa chỉ nhà đất thế chấp
không có nhà và cũng không có giấy tờ đất nào như trong hồ sơ vay vốn.
Cũng có những vụ ngân hàng không lập hợp đồng thế chấp có công chứng,
dẫn đến khách hàng nại ra rằng hợp đồng thế chấp vô hiệu. Thậm chí, trong
một vụ việc tranh chấp đang trong quá trình giải quyết, ngân hàng sau khi
nhận tài sản thế chấp là nhà đất thì không rõ vì lý do gì đã cởi bỏ thế chấp,
dẫn đến tình trạng khách hàng không chịu trả nợ, ngân hàng không có gì để
xử lý.
48
Có trường hợp DN thế chấp nhà xưởng và không trả được nợ, ngân
hàng không có cách nào để phát mại được nhà xưởng đó. Bán một dây chuyền
sản xuất không dễ như bán các tài sản khác…
Có thể thấy, việc xử lý nợ xấu được đến đâu còn phụ thuộc rất nhiều
vào thực trạng các khoản nợ, các tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm là thứ cuối
cùng mà ngân hàng có thể thu được từ người vay.
Tỷ trọng dư nợ cho vay của các NHTM đối với thị trường bất
động sản
Mặc dù tăng trưởng tín dụng bất động sản trong năm 2011 giảm tới
13,4%, nhưng vẫn có những khoản cho vay bất động sản tăng mạnh như cho
vay xây dựng nhà, vay xây dựng khu công nghiệp.
Theo đó, nếu như đến cuối năm 2010, tín dụng bất động sản có mức
tăng 23,5% so cùng thời điểm năm 2009, thì tính đến ngày 30/9/2011, dư nợ
cho vay kinh doanh trong lĩnh vực này đạt mức 203.598 tỷ đồng, giảm
13,46% so với 31/12/2010, chiếm khoảng 9,25% tổng dư nợ của toàn hệ
thống.
Trong tổng dư nợ cho vay bất động sản, khoản vay ngắn hạn là 40.890
tỷ đồng chiếm 20,08%, vay trung và dài hạn là 162.708 tỷ đồng chiếm
79,92%. Dư nợ có tài sản đảm bảo chiếm khoảng 97%, dư nợ cho vay không
có tài sản đảm bảo chiếm 3%. Dư nợ xấu khoảng 4,14%
Theo thống kê, nhìn chung các khoản tín dụng trong năm 2011 đều
giảm, chẳng hạn như vay xây dựng khu đô thị là 24.618 tỷ đồng, giảm
13,08%; vay xây dựng, sửa chữa, mua nhà để ở (trừ trường hợp khách hàng
vay trả nợ bằng tiền lương) là 54.285 tỷ đồng, giảm 26,97%.
Ngoài ra, vay mua quyền sử dụng đất là 15.915 tỷ đồng, giảm 13%; vay
đầu tư, kinh doanh bất động sản khác (xây dựng và kinh doanh trung tâm
49
thương mại, chợ, cửa hàng) là 38.875 tỷ đồng, giảm 36,23% so với cuối năm
2010.
Tuy nhiên vẫn có một số khoản mục có mức tăng dư nợ như: vay xây
dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là 13.877 tỷ đồng, tăng 5,74%. Đặc biệt
vay xây dựng, sửa chữa, mua nhà để bán, cho thuê là 23.453 tỷ đồng, tăng tới
76,6% so với 31/12/2010. Riêng vay xây dựng văn phòng (cao ốc) cho thuê
đạt 32.573 tỷ đồng, tăng 20,81%.
Đây là một sự bất thường, khi mà cho vay các khoản mục xây dựng,
sửa chữa, mua nhà để bán, cho thuê (thuộc đầu cung) lại tăng quá cao, đến
76,6%, trong khi cho vay xây dựng, sửa chữa, mua nhà để ở (đầu cầu) lại
giảm nhiều tới 26,97%. Dư nợ cho vay bất động sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng
16,34%, vay trung và dài hạn chiếm 83,66%.
Bảng 2.1 BĐS theo nhu cầu vốn vay tại thời điểm 30/9/2011
Nguồn: Bộ Xây dựng
Nhóm NHTM cổ phần có tỷ lệ dư nợ bất động sản cao nhất, chiếm
62,77%, giảm so với mức 63,27% tại thời điểm 30/6/2011. Nhóm NHTM
Nhà nước cũng giảm từ mức 30,52% xuống còn 29,46%. Nhóm ngân hàng
50
liên doanh, ngân hàng nước ngoài và công ty tài chính có tỷ trọng cho nợ cho
vay bất động sản tăng nhẹ so với 30/6/2011.
Báo cáo của UBGSTCQG nhận định thị trường bất động sản đang gặp
khó khăn với cung tăng nhanh, cầu giảm mạnh, giao dịch trầm lắng, giá cả sụt
giảm đã làm giảm chất lượng tài sản có và có thể gây ra rủi ro cho các
NHTM, Nhóm NHTM Nhà nước và NHTM chiếm 92,23% dư nợ cho vay bất
động sản
Hình 2.3 Cơ cấu tổng dư nợ cho vay BĐS
Nguồn: UBGSTCQG
2.3.3 Nợ xấu trong tín dụng bất động sản của các ngân hàng
thương mại Việt Nam
Từ cuối năm 2010 đến nay, thị trường bất động sản đã rơi vào tình
trạng suy giảm cả về giá lẫn giao dịch. Tình trạng này do thị trường gặp hai
điểm nghẽn lớn nhất là nợ xấu và tồn đọng
51