Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.11 KB, 96 trang )
Tín dụng ngân hàng trong lĩnh vực bất động sản
Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng (thể nhân hoặc pháp
nhân) liên quan đến lĩnh vực BĐS. Theo đó, tín dụng bất động sản là việc
ngân hàng cấp vốn cho khách hàng căn cứ vào mục đích vay vốn của khách
hàng liên quan đến BĐS.
Trong trường hợp này, ngân hàng cho khách hàng vay để, đầu tư kinh
doanh bất động sản, xây dựng nhà để kinh doanh, sửa chữa mua bán nhà cửa,
xây dựng hoàng thiện cơ sở hạ tầng, mua bán căn hộ liền kề, chung cư, mua
bán trả góp, xây dựng khu công nghiệp cụm công nghiêp, xây dựng nhà cho
thuê…
Như vậy tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực bất động sản bao gồm cả
hai hình thức, vừa đáp ứng nhu cầu đầu tư kinh doanh bất động sản của nhà
đầu tư vừa đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân.
Việc cấp tín dụng bất động sản của các ngân hàng đã góp phần tác
động đến cung – cầu bất động sản trên thị trường. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu
quả hoạt động và an toàn khi cho vay, các ngân hàng yêu cầu khách hàng vay
vốn phải đảm bảo các nguyên tắc tín dụng nhu vốn vay phải được sử dụng
đúng mục đích và được hoàn trả gốc và lãi đúng kỳ hạn đã cam kết. Mặt khác,
ngân hàng còn có thể yêu cầu khách hàng thực hiện đảm bảo tín dụng hoặc áp
dụng các nguyên tắc đánh giá khách hàng khác làm cơ sở xét duyệt cho vay.
Các loại sản phẩm tín dụng bất động sản ở Việt Nam hiện nay
Tuy chưa có một thống kê đầy đủ về các sản phẩm tín dụng bất động
sản của các ngân hàng thương mại hiện nay, nhưng cơ bản có thể thấy một số
loại hình tín dụng bất động sản cụ thể nhu sau:
- Cho vay mua nhà, đất để ở.
- Cho vay mua đất xây dựng khu đô thị
19
- Cho vay mua đất xây dựng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu
chế xuất
- Cho vay xây dựng sửa chữa nhà
- Cho vay xây dựng nhà xưởng
- Cho vay xây dựng văn phòng làm việc ( trụ sở công ty)…
- Cho vay xây dựng văn phòng cho thuê
- Cho vay xây khách sạn, resort
- Cho vay mua thế chấp bất động sản để kinh doanh
- Cho vay đầu tư xây dựng khu tập luyện thể thao hay chơi thể thao, nơi
vui chơi giải trí
- Cho vay đầu tư xây dựng chung cư cao tầng, căn hộ, nhà liền kề, biệt
thự... để bán.
1.3.2 Vai trò tín dụng ngân hàng đối với bất động sản và bài học
kinh nghiệm từ tín dụng bất động sản của nước Mỹ.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực bất động sản
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam tuy có nhiều sự tiến
triển so với giai đoạn trước, nhưng các kênh vốn cho sự phát triển kinh tế vẫn
còn chưa được phát triển đầy đủ cũng như chưa phát huy hết hiệu quả vốn có
của nó. Do đó, một mặt nào đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn dựa nhiều vào
nguồn vốn từ ngành ngân hàng (các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày
càng nhiều nhưng tiếp cận và giải ngân vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm).
Vì thế, vai trò của tín dụng ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế nói
chung và đối với lĩnh vực bất động sản nói riêng vẫn giữ vị trí quan trọng. Tín
dụng ngân hàng thương mại, vừa là kênh cung cấp vốn cho thị trường bất
động sản dưới dạng các dự án đầu tư bất động sản (kích cung) vừa là kênh
cho vay mua bán bất động sản (kích cầu). Mặc khác, về hiệu quả đầu tư các
dự án bất động sản, ngân hàng đã góp phần nâng cao tính hiệu quả của dự án
20
đầu tư bất động sản; ngân hàng là nhà tư vấn, nhà cung cấp dịch vụ thanh
toán, nhà đầu tư góp vốn cùng với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, ...
Điều này đã tạo nên một sự gắn kết giữa cung và cầu bất động sản trên thị
trường, góp phần tạo nên sự phát triển cho thị trường bất động sản.
Cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn ở Mỹ năm 2008
Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 thì
chúng ta thấy người dân Mỹ “tay không” đến Công ty tài chính (CTTC)
chuyên cho vay mua BĐS vay tiền một cách dễ dãi với thế chấp bằng chính
căn nhà mua của Công ty, người ta vay mua nhà với đồng thời nhiều mục
đích: để tự sử dụng một phần, để cho thuê lại lấy tiền trả lãi cho CTTC và
“chờ” giá BĐS lên để bán, rồi lại quay vòng;
CTTC “gõ cửa” ngân hàng đầu tư (NHĐT) xin vay để xây dựng và
kinh doanh BĐS bằng cách thế chấp cho NHĐT “danh sách” các con nợ đã
vay mua BĐS của mình.
Ngân hàng đầu tư với “uy tín” hàng trăm năm và với “vùng phủ sóng”
rộng khắp thế giới của mình (điển hình là 3 đại gia: Fannie Maie, Freddie
Max và Merrill Lynch) để dùng danh sách hợp đồng tín dụng khách hàng của
CTTC và “vốn tự có” tạo thành một “nồi lẩu” nợ thập cẩm làm cơ sở tạo ra
công cụ “CK hoá nợ” phát hành vay vốn tại nước Mỹ và ngoài nước Mỹ, lấy
nguồn mở rộng khách hàng vay là các CTTC hay các Ngân hàng thương mại
(NHTM) cho vay BĐS trong nước Mỹ. Cứ như vậy tạo thành các vòng xoáy
mở rộng thị trường từ 2001 đến 2007.
Thị trường BĐS sau một thời gian quá nóng nhờ chính sách lãi suất
thấp và cơ chế dễ dãi sản sinh ra nó kéo dài suốt từ sau vụ khủng bố
11/9/2001 đến 2007 bỗng nhiên đóng băng và rắc rối dây chuyền đã bắt đầu
từ chính “cục băng” này: Người dân vay mua BĐS không bán được nhà nên
không có tiền trả cho CTTC; CTTC không trả được nợ cho NHĐT và buộc
21
phải “ôm lại” BĐS ế ẩm của mình; CK huy động nguồn từ khắp thế giới của
các NHĐT để cho các CTTC trong nước vay nay đã đến kỳ đáo hạn mà
không “đòi” được tiền từ CTTC; Giá CK đao thảm hại mà NHĐT vẫn phải trả
nguyên mệnh giá. Từ đây, hai gọng kìm của đồng thời cả 2 tư cách: “con nợ”
đối với người mua CK khắp thế giới và “chủ nợ” đối với các CTTC đã siết
chặt “vòng kim cô” trên đầu các NHĐT và cái gì phải đến đã đến: Tín dụng
BĐS dưới chuẩn đã làm bão táp tài chính khủng khiếp ở phố Wall bùng nổ và
ngày 15/9/2008.
Bài học kinh nghiệm cho ngân hàng thương mại Việt Nam
BĐS là một lĩnh vực đầu tư đòi hỏi phải có nguồn vốn trung, dài hạn
vững mạnh, một kế hoạch tài chính ổn định. Tuy nhiên, trên thực tế ở nước ta,
bên cạnh nguồn vốn đầu tư trung dài hạn từ ngân hàng hay từ vốn đối ứng của
khách hàng, nguồn vốn đầu tư ngắn hạn (nguồn vốn “nóng”, có thời hạn dưới
1 năm) cũng đổ vào TT BĐS, thậm chí có những giai đoạn nguồn vốn “nóng”
còn lấn át nguồn vốn trung và dài hạn trong việc chi phối sự vận động của
TTBĐS, tạo ra những hoạt động lướt sóng, gây nên những cơn sốt nóng trên
thị trường này, đồng thời góp phần chủ yếu tạo ra “bong bóng”, tăng xác suất
rủi ro trên thị trường tài chính. Đặc điểm quan trọng nhất của nguồn vốn
“nóng” là tham gia vào thị trường rất nhanh, song có thể rút ra khỏi thị trường
cũng rất nhanh chóng. Vì vậy, một trong những giải pháp vốn cho TTBĐS lại
chính là minh bạch hóa việc quản lý, giám sát nguồn đầu tư ngắn hạn vào
TTBĐS là một yêu cầu khách quan và cần thiết. Do thiếu tính công khai minh
bạch nên TTBĐS đã và đang chịu tác động của tin đồn, của các “chiêu” làm
giá, tạo sóng của giới đầu cơ... Bên cạnh đó, xu thế chung của giá cả BĐS là
tăng liên tục, thậm chí tăng gấp vài lần đến hàng chục lần sau một thời gian
không dài, cung BĐS luôn ở trạng thái thiếu trong khi cầu BĐS rất lớn đã tạo
sức hút cho các nhà đầu tư tìm kiếm các khoản siêu lợi nhuận trong ngắn hạn.
22
Mặt khác, hiện có một tỷ lệ khá lớn các giao dịch trên thị trường nhà
đất ở Việt Nam là phi chính thức do nhà, đất còn thiếu căn cứ pháp lý, do qui
hoạch không ổn định, do qui hoạch “treo”, do thủ tục quá rườm rà và phức tạp
Với môi trường “dưới chuẩn” này đã tạo điều kiện cho hoạt động cò
mồi, đầu cơ, bơm giá BĐS phát triển mạnh ở Việt Nam, tạo ra những cơn sốt
ảo, kích thích đầu cơ theo phong trào và chắc chắn kéo theo việc gia tăng rủi
ro cho tín dụng bất động sản.
Để thực hiện được cần phải có cơ chế minh bạch cho phòng ngừa, kiểm
soát rủi ro. Đặc biệt là giải pháp chứng khoán hóa tín dụng BĐS cần phải
thông qua thông tin về xếp hạng tín dụng đủ độ tin cậy cao. Trong điều kiện
TTCK Việt Nam còn yếu, giải pháp hữu hiệu lúc này cho vấn đề giảm rủi ro
tín dụng BĐS chính là: Ngay trong các NHTM lớn nên thành lập các đơn vị
hạch toán độc lập như: NHĐT, NHPT, CTTC... để thực hiện các hoạt động
dịch vụ và tự doanh chuyên nghiệp về lĩnh vực BĐS, như: thuê mua tài chính,
bảo hiểm khoản vay, bảo lãnh phát hành chứng khoán BĐS, bảo lãnh vay
vốn… hay lập Quỹ đầu tư tín thác để thông qua các nhà đầu tư chuyên nghiệp
(có cam kết bảo đảm lợi tức đầu tư được thỏa thuận) để phát triển đúng mức
và giảm thiểu rủi ro tín dụng trên thị trường bất động sản.
Tóm lại: Ngày nay BĐS trước hết là hàng hóa. Việc tạo ra BĐS và hình
thành giá BĐS luôn luôn bao gồm cả các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội bên
cạnh các nhân tố nội tại như qui luật cung - cầu, qui luật giá trị. TT BĐS là
khách quan, nhưng đầy rẫy rủi ro và bao gồm nhiều cơ hội thu lợi tức lớn, đặc
biệt là ở một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG BẤT ĐỘNG SẢN TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của thị trường bất động sản Việt Nam những năm gần
đây và và xu hướng các năm tiếp theo
2.1.1 Thực trạng phát triển của thị trường bất động sản Việt Nam
từ năm 2008 đến nay.
Những mặt tích cực:
Thị trường bất động sản (BĐS) là một trong những thị trường quan
trọng của nền kinh tế, thị trường BĐS Việt Nam tuy còn non trẻ, nhưng thời
gian vừa qua đã có bước phát triển tích cực, đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng kinh tế - xã hội của đất nước. Theo thống kê của Tổng cục Thuế các
khoản thu ngân sách có liên quan đến nhà, đất hàng năm chiếm khoảng 7%
GDP. Nhiều dự án phát triển nhà ở, khu công nghiệp, văn phòng, khách sạn
đã được triển khai đầu tư xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu về chỗ ở của người
dân góp phần thay đổi bộ mặt đô thị, nông thôn trong cả nước.
Riêng tại Hà Nội và Thành Phố. Hồ Chí Minh mỗi năm các dự án nhà ở
và khu đô thị mới đã cung cấp cho thị trường khoảng 1,2 – 3.5 triệu m2 nhà ở.
Tỷ lệ tăng trưởng nhà ở đô thị bình quân hàng năm đạt trên 15%. Diện tích
nhà ở bình quân đầu người toàn quốc năm 2009 là 16,7 m2/người, khu vực đô
thị là 19,2 m2/người, khu vực nông thôn là 15,7 m2/người và tỷ lệ này liên
tục được tăng cao năm sau cao hơn năm trước.
Các chủ thể tham gia hoạt động trong thị trường BĐS ngày càng đa
dạng do không chỉ gồm các doanh nghiệp nhà nước mà đã được khuyến
khích, mở rộng đối với nhiều thành phần kinh tế. Số lượng dự án đầu tư kinh
doanh BĐS do các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư ngày càng
tăng.
24
Thị trường BĐS có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: xây
dựng, ngân hàng, môi trường... nên việc mở rộng và phát triển thị trường BĐS
sẽ góp phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa các ngành. Đồng thời nâng cao
trình độ xã hội hoá trong sản xuất kinh doanh, tạo nhiều công ăn việc làm cho
người lao động. Trên thị trường mọi chủ thể tham gia có điều kiện tiếp xúc và
mở rộng mối quan hệ với các chủ thể thuộc các ngành, các lĩnh vực khác
Nhìn chung, thị trường BĐS Việt Nam những năm qua từ 2008 đến
2012 đã có những bước phát triển nhất định, phần nào đáp ứng được nhu cầu
giao dịch BĐS của nền kinh tế trong quá trình đất nước bước vào giai đoạn
đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Những mặt tồn tại:
Thị trường bất động sản sau một thời gian phát triển khá cao đã bắt
đầu bộc lộ những khiếm khuyết và chưa thực sự ổn định, còn tồn tại nhiều bất
cập, cụ thể:
Công tác quy hoạch đất, quy hoạch đô thị còn nhiều bất cập.
Công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị còn nhiều
bất cập chưa bắt kịp với sự phát triển chung của toàn xã hội, tình hình thực tế
lại cho thấy rằng quy hoạch phát triển khu dân cư thực hiện còn dàn trải, thiếu
quy hoạch tổng thể, thiếu quy hoạch chi tiết mang tính dài hạn do đó thường
xuyên phải điều chỉnh.
Chính vì vậy nâng cao chất lượng quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch
đầu tư phát triển BĐS là nhiệm vụ trong tâm xuyên suốt của Chính Phủ nói
chung và của ngành xây dựng nói riêng. Nhà nước chủ động toàn bộ thị
trường đất đai sơ cấp, điều tiết thị trường đất đai thứ cấp, bảo đảm sử dụng
đúng mục đích theo quy hoạch đã được xét duyệt. Công khai, minh bạch
trong quản lý đất đai (từ việc giao đất, cho thuê đất đến việc bồi thường, hỗ
25
trợ, tái định cư khi thu hồi đất). Xây dựng và hoàn thiện hệ thống đăng ký
BĐS thống nhất, công khai hóa hoạt động kinh doanh BĐS và thông tin về thị
trường BĐS;
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, quy hoạch đất đai, kiến trúc, xây
dựng từ trung ương xuống địa phương, tăng cường năng lực cho bộ máy tổ
chức và cán bộ quản lý nhà nước về quy hoạch đất đai, quy hoạch đô thị, đẩy
mạnh xây dựng những đề án có tầm nhìn dài hạn, quy hoạch tổng thể và chi
tiết cho từng vùng, công bố công khai rộng rãi những quy hoạch mang tầm
quốc gia cho dân chúng được biết, tránh hiện tượng quy hoạch treo gây lãng
phí cho nhà nước và ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Tăng cường
thực thi các công cụ giám sát để thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra,
kiểm tra việc thực thi pháp luật. Xây dựng chế tài xử phạt và xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai, xây dựng và quản lý đất đai;
Mang nặng yếu tố đầu cơ và tâm lý đám đông
BĐS là một lĩnh vực đầu tư đòi hỏi phải có nguồn vốn trung, dài hạn
vững mạnh, một kế hoạch tài chính ổn định. Tuy nhiên, trên thực tế ở nước ta,
bên cạnh nguồn vốn đầu tư trung dài hạn từ ngân hàng hay từ vốn đối ứng của
khách hàng, nguồn vốn đầu tư ngắn hạn (nguồn vốn “nóng”, có thời hạn dưới
1 năm) đây chính là các nguồn vốn của những nhà đầu cơ, muốn đầu tư trong
thời gian ngắn nhằm tranh thủ kiếm lợi nhuận, cũng đổ vào thị trường BĐS,
thậm chí có những giai đoạn nguồn vốn “nóng” còn lấn át nguồn vốn trung và
dài hạn trong việc chi phối sự vận động của thị trường BĐS, tạo ra những
hoạt động lướt sóng, gây nên những cơn sốt nóng trên thị trường này, đồng
thời góp phần chủ yếu tạo ra “bong bóng”, tăng xác suất rủi ro trên thị trường
tài chính. Đặc điểm quan trọng nhất của nguồn vốn “nóng” là tham gia vào thị
trường rất nhanh, song có thể rút ra khỏi thị trường cũng rất nhanh chóng. Vì
26
vậy, một trong những giải pháp vốn cho thị trường BĐS lại chính là minh
bạch hóa việc quản lý, giám sát cho được nguồn đầu tư ngắn hạn vào thị
trường BĐS là một yêu cầu khách quan và cần thiết.
Do thiếu tính công khai minh bạch nên thị trường BĐS đã và đang chịu
tác động của tin đồn, tâm lý đám đông, và của các “chiêu” làm giá, tạo sóng
của giới đầu cơ… Bên cạnh đó, xu thế chung của giá cả BĐS là tăng liên tục,
khi đã được thổi giá thì thậm chí tăng gấp vài lần đến hàng chục lần sau một
thời gian không dài, cung BĐS luôn ở trạng thái thiếu trong khi cầu BĐS rất
lớn đã tạo sức hút cho các nhà đầu tư tìm kiếm các khoản siêu lợi nhuận trong
ngắn hạn.
Mặt khác, một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam có tâm lý đám
đông, đầu tư theo phòng trào, khi thấy thị trường tăng trưởng nóng cũng cố
gắng tập trung các nguồn vốn sẵn có, những nguồn vốn tích lũy từ trước, kể
cả vay mượn từ ngân hàng… để tranh thủ đầu tư vào bất động sản, với tâm lý
đầu cơ lượt sóng tranh thủ tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn đã góp phần tạo
ra bóng bóng cho thị trường bất động sản, đây chính là bài học quý báu đối
với những nhà đầu tư vào thị trường bất động sản trong tương lai.
Dịch vụ tư vấn, môi giới BĐS còn mang tính tự phát
Các hoạt động dịch vụ môi giới BĐS hình thành và phát triển tự phát.
Song song với các tổ chức có đăng ký ngành nghề môi giới nhà đất, hàng loạt
các hộ gia đình, nhóm người, cá nhân tự treo biển quảng cáo môi giới nhà đất.
Chức năng chủ yếu của các trung tâm môi giới nhà đất hiện nay chủ yếu là
kết nối giữa người mua và người bán mà chưa cung cấp và phân tích thông tin
cần thiết về BĐS. Hệ thống thông tin về thị trường BĐS còn mỏng, việc cung
cấp thông tin chưa minh bạch, chưa cụ thể, chưa công khai và tổ chức dịch vụ
cho thị trường còn nhiều hạn chế. Việc mua bán chủ yếu được thực hiện theo
hình thức trao tay, không đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền vừa
27
gây thất thu cho cơ quan quản lý nhà nước vừa dễ là nguyên nhân gây ra tranh
chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai.
Thị trường BĐS còn diễn ra nhiều nghịch lý, bất cập. Số giao dịch
ngầm, không đăng ký với cơ quan nhà nước chiếm khoảng hơn 70%. Hầu hết
những người dân đều trả lời là do thủ tục hành chính của các đơn vị liên quan
có quá nhiều rườm rà, phiền phức, mất nhiều thời gian và chi phí. Các hoạt
động dịch vụ môi giới BĐS hình thành và phát triển tự phát.
Cung – cầu bất động sản còn nhiều bất cập chưa thực sự đáp
ứng được quy luật của thị trường.
Ngày nay BĐS trước hết là hàng hóa nó được vận hàng theo các quy
luật cơ bản của kinh tế thị trường. Việc tạo ra BĐS và hình thành giá BĐS
luôn luôn bao gồm cả các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội bên cạnh các nhân
tố nội tại như qui luật cung - cầu, qui luật giá trị. TT BĐS là khách quan,
nhưng đầy rẫy rủi ro và bao gồm nhiều cơ hội thu lợi tức lớn, đặc biệt là ở
một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Tuy nhiên thị trường bất động sản ở Việt Nam trong những năm gần
đây đặc biệt từ năm 2008 đến nay đang sa lầy trong một nghịch lý là cơ cấu
sản phẩm hàng hóa không phù hợp với nhu cầu sử dụng, thiếu hàng hóa có
quy mô vừa và nhỏ, có giá cả phù hợp với đa số nhu cầu của người dân. Các
doanh nghiệp kinh doanh BĐS đang sản xuất cái mình có chứ chưa đi sâu tìm
hiểu sản xuất cái mà người tiêu dùng cần. Khi mà khả năng đầu cơ đến hạn,
dù nguồn cầu dồi dào nhưng thị trường vẫn không thể thanh khoản, bởi nhu
cầu của người dân hiện nay là trên dưới 1 tỷ đồng/căn hộ nhưng thị trường lại
chủ yếu là căn hộ từ 2-3 tỷ đồng, nhu cầu người dân chủ yếu là nhà ở xã hội
trong khi các công ty kinh doanh lại tập trung chủ yếu vào nhà ở thương mại.
Vì thế, thị trường rơi vào khủng hoảng vừa thừa vừa thiếu. Tình trạng căn hộ
tồn kho thì rất nhiều, không thể bán được trong khi đại bộ phân người dân có
28
nhu cầu về nhà ở thức sự lại không có khả năng tiếp cận thị trường này điều
này cho thấy thị trường BĐS phát triển chưa đảm bảo sự cân đối, các nhà đầu
tư chỉ tập trung quan tâm tới các dự án nhà ở, dự án khu đô thị mới để bán
cho những người có thu nhập cao. Trong khi đó, các dự án nhà ở để bán trả
góp hoặc cho thuê dành cho các đối tượng có thu nhập thấp chưa được quan
tâm đúng mức.
Giá BĐS, đặc biệt là giá nhà ở còn cao so với mặt bằng thu nhập của
người dân cũng như mức phát triển của nền kinh tế từ đó gây ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tạo lập nhà ở của đại bộ phận người lao động thu nhập thấp,
người nghèo tại khu vực đô thị gặp nhiều khó khăn.
Điều đó cho thấy, không chỉ người thu nhập thấp mà những người có
thu nhập trung bình cũng khó có cơ hội sở hữu nhà ở. Đây là một nghịch lý đã
tồn tại trong một thời gian khá dài trong khi các cơ quan chức năng vẫn đang
tìm kiếm những giải pháp thích hợp nhất cho sự phát triển của một thị trường
đầy tiềm năng như thị trường BĐS theo đúng quy luật cơ bản của kinh tế thị
trường đó là quy luật cung – cầu.
2.1.2 Xu hướng phát triển thị trường BĐS Việt Nam từ nay đến
năm 2015 và các năm tiếp theo.
Theo nghiên cứu của tác giả thì có 03 khả năng xảy ra đối với thị
trường bất động sản từ nay đến năm 2015 đó là:
Kịch bản thứ nhất, là kịch bản khó xảy ra nhất nhưng được mong
muốn nhất, đó là thị trường khởi sắc. Điều kiện của kịch bản này là tình hình
kinh tế thế giới ổn định, các nước đồng tiền chung châu Âu vượt qua khỏi
khủng hoảng nợ công. Đó là tình hình kinh tế vĩ mô trong nước tốt đẹp, tăng
trưởng cao, lạm phát tiếp tục được kiềm chế, lãi suất về mức 10%/năm. Một
số công cụ tài chính bất động sản ra đời, chẳng hạn quỹ tín thác bất động sản,
quỹ tiết kiệm tương hỗ,… Khi đó, thị trường sẽ qua điểm đáy và khởi sắc,
29