Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.11 KB, 96 trang )
nhiên, tùy vào từng thời điểm thị trường bất động sản nóng, lạnh khác nhau,
mà hoạt động tín dụng bất động sản của các ngân hàng sẽ có những rủi ro và
lợi thuận lợi khác nhau.
Hoạt động của ngân hàng thương mại trong cho vay đối với lĩnh vực
bất động sản phải chịu tác động của thị trường bất động sản. Do đó, những
thuận lợi đối với thị trường bất động sản sẽ là tiền đề phát triển tín dụng bất
động sản các ngân hàng đạt được hiệu quả. Những mặt thuận lợi trong hoạt
động tín dụng bất động sản phải được kể đến như sau:
Cơ sở pháp lý đối với thị trường bất động sản ở Việt Nam hiện nay
Tuy các thủ tục pháp lý của nước ta về thị trường bất động sản nói
chung và tín dụng bất động sản của các NHTM nói riêng vẫn còn nhiều bất
cập, tuy nhiên không vì thế mà phủ nhận những đóng góp của các văn bản
pháp lý này đối với thị trường BĐS , những thuận lợi về mặt pháp lý có thể
điểm qua như sau
● Hành lang pháp luật điều chỉnh thị trường bất động sản đã và đang
được minh bạch hóa với:
- Luật kinh doanh bất động sản ban hàng ngày 29/06/2006 có hiệu lực
thi hành từ 01/01/2007; Nghị định Chính Phủ sô 153/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành luật Kinh doanh bất động
sản; Thông tư 13/2008/TT-BXD ngày 21/05/2008 của Bộ Xây dựng hướng
dẫn thực hiện một số nội dung Nghị định 153/2007/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản.
Như vậy, Luật kinh doanh bất động sản ra đời năm 2006 đã thừa nhận
một thị trường bất động sản đang sôi động, tạo một hành lang pháp lý minh
bạch, góp phần giảm thiểu nhưng giao dịch ngầm vốn tồn tại lâu đời và đang
làm méo mó thị trường bất động sản.
33
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI tại kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Nhà ở. Luật Nhà
ở bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
Luật đất đai năm 2003 là Bộ luật nền tảng nhất, tuy còn nhiều bất cập
và đang được Quốc hội tiến hành sửa đổi trong năm 2012 nhưng cũng đã góp
phần quy định các quyền liên quan đến quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm
2003 đã tạo được sự đổi mới khá toàn diện của hệ thống pháp luật đất đai Việt
Nam trong đó các các điểm liên quan đến thị trường bất động sản hơn so với
các năm trước. Hiện nay Bộ luật này đang được Quốc hội thảo luận tiến hành
sửa đổi và có thể sẽ được thông qua và ban hành trong năm 2013.
● Hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng đang từng bước
được hoàn thiện.
Luật các tổ chức tín dụng 2010 đã được Quốc hội thông qua ngày
16/6/2010 và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Trong luật đã có
điều Về kinh doanh bất động sản. Mặt khác trong Trong Luật các TCTD
2010, tiêu chí phân biệt giữa ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng đã được
quy định rõ hơn trên cơ sở phạm vi hoạt động của hai loại hình này. Theo đó,
các TCTD phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi của cá nhân, không
được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Quy định
này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và tạo điều kiện để
một mặt giảm bớt rủi ro cho hệ thống TCTD, mặt khác cho phép các TCTD
phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác
của mình do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn so
với các ngân hàng thương mại là những tổ chức nhận tiền gửi của dân cư và
tham gia vào hệ thống thanh toán.
34
Cầu tín dụng đối với thị trường bất động sản
Thuận lợi lớn nhất đối với hoạt động tín dụng bất động sản tại các
NHTM Việt Nam hiện nay đó chính là cầu về tín dụng rất lớn. Không như ở
các nước phát triển, người dân có nhiều cách để tiếp cận được nguồn tín dụng
phục vụ cho thị trường bất động một cách dễ dàng do lãi suất thấp và các
nguồn vốn mang tính dài hạn, doanh nghiệp cũng dễ dàng huy động được vốn
bằng nhiều cách khác nhau như trái phiếu công trình, chứng chỉ bất động sản,
hoặc được ngân hàng đầu tư mở rộng cho vay sau khi tiến hành chứng khoán
hóa bằng chính tài sản đảm bảo của doanh nghiệp. Với thị trường tài chính
Việt Nam còn ở giai đoạn chưa phát triển cao các sản phẩm tín dụng còn rất
khiêm tốn, thị trường cầm cố thứ cấp chưa ra đời nên việc huy động vốn từ
các định chế tài chính khác là vô cùng khó khăn. Lợi thế này của các ngân
hàng thương mại lại càng rõ nét hơn đối với thị trường bất động sản. Hầu hết
các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản hiện nay ở Việt Nam đều sử dụng
nguồn tín dụng từ ngân hàng thương mại và rất khó khăn trong việc huy động
được các nguồn vốn khác. Có tới 80% vốn đầu tư, kinh doanh vào thị trường
bất động sản hiện nay là được lấy từ tín dụng của ngân hàng thương mại.
Thuận lợi tiếp theo là nhu cầu về nhà ở của đại bộ phận người dân Việt
Nam là rất lớn đặc biệt ở các khu vực đô thị với tâm lý ”an cư mới lập
nghiêp” ai cũng mong muốn được sở hữu một căn nhà cho mình, đây là một
nguồn khách hàng tiềm năng nếu biết cách cung cấp những sản phẩm tín dụng
bất động sản một cách hợp lý.
Thêm 01 lý do nữa để chứng tỏ sự thuận lợi của tín dụng ngân hàng
thương mại đối với thị trường bất động sản là, nhu cầu xây dựng ở Việt Nam
hiện nay rất lớn do cơ sở hạ tầng còn kém, hạ tầng kỹ thuật còn thô sơ do đó
cầu về tín dụng từ các ngân hàng để đầu tư, để kinh doanh thậm chí đầu cơ là
rất lớn.
35
Một trong những thuận lợi của tín dụng cho thị trường bất động sản là
hiện nay do đầu tư Bất động sản có độ ổn định hơn những kênh đầu tư khác
như là Chứng khoán, Vàng... đã khiến cho cầu bất động sản luôn sôi động
chính vì vậy lượng vốn đổ vào thị trường này sẽ không hề suy giảm nhiều như
hai thị trường kia đây chính là những điều kiện thuận lợi đẩy mạnh và phát
triển tín dụng bất động sản.
2.2.2 Những khó khăn trong hoạt động tín dụng bất động sản tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thị trường BĐS Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, phát triển còn thiếu
tính quy hoạch, trong rất nhiều năm qua, thị trường BĐS luôn phát triển thiếu
ổn định, khi thì quá nóng, giá tăng mạnh, lúc thì gần như đóng băng, không
có giao dịch. Nguyên nhân chính của tình trạng này là nguồn vốn chủ yếu của
thị trường BĐS hiện là tín dụng của ngân hàng thương mại, với đặc điểm là
lãi suất rất cao và thời hạn ngắn, không phù hợp với đầu tư kinh doanh bất
động sản, trong khi đó kinh doanh và tiêu dùng BĐS vốn đòi hỏi lãi suất thấp
và thời hạn dài. Mỗi động thái thắt chặt vốn ngắn hạn của ngân hàng đều
khiến thị trường BĐS chịu tác động mạnh và tức thời, tạo nên rủi ro cao cho
thị trường này.
Với các công cụ tài chính hiện tại, chủ yếu là vốn ngắn hạn của ngân
hàng thương mại, thị trường BĐS Việt Nam đã phát triển đến mức giới hạn và
tiềm ẩn rất nhiều rủi ro về thanh khoản cho hệ thống tài chính ngân hàng. Để
đáp ứng mức độ phát triển mới và giảm bớt rủi ro cho thị trường tài chính,
cho ngân hàng, nhất thiết phải tạo ra các công cụ tài chính mới để tạo lập thị
trường vốn dài hạn và thu hút các định chế đầu tư vào thị trường này. Những
khó khăn căn bản trong hoạt động tín dụng bất động sản Việt Nam có thể kể
ra sau đây
36
Cơ sở pháp lý đối với thị trường tín dụng bất động sản ở Việt
Nam chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tín dụng bất động sản tuy đã
được ban hành nhiều về số lượng nhưng vẫn chưa bao quát được các nội dung
cần điều chỉnh và không đồng bộ. Nhiều quy định còn chồng chéo, mâu
thuẫn, thậm chí có những quy định rất bất hợp lý, không thực hiện được trong
thực tế. Vì vậy, nhu cầu cần có một văn bản luật mang tính khái quát cao,
thống nhất, đồng bộ, quy định cụ thể các lĩnh vực có liên quan đến vấn đề tín
dụng bất độn sản là nhu cầu cấp thiết và cần được ban hành.
Một số vấn đề lớn về luật các tổ chức tín dụng cũng như tín dụng bất
động sản hiện đang còn vướng mắc mà các văn bản dưới luật không thể giải
quyết được hoặc nếu có giải quyết thì hiệu lực và hiệu quả thấp, vì vậy cần
phải được luật hoá.
Quản lý phân tán cũng dẫn đến việc xử lý những bất cập của văn bản
pháp lý ban hành tốn rất nhiều thời gian và không triệt để gây lãng phí rất
lớn thời gian, tiền bạc và bức xúc trong xã hội. Thời gian qua, Ngân hàng
nhà nước đã có rất nhiều cố gắng trong việc ban hành các chính sách, đặc
biệt là các chính sách tiền tệ và tài khóa, cho các tổ chức tín dụng, phù hợp
với thực tế và thuận lợi cho người dân. Tuy nhiên các chính sách điều hành
đôi khi còn mang tính ngắn hạn, giật cục, các văn bản, các quy đinh được
ban hành một cách vội vã nên có tác động không tốt đối với thị trường bất
động sản.
Bất đối xứng trong cầu tín dụng đối với thị trường bất động sản
Thứ nhất tín dụng BĐS đòi hỏi chủ yếu là các nguồn tín dụng trung và
dài hạn trong khi đó hiện nay rất thiếu các khoản tín dụng trung và dài hạn để
có thể cung cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Dư nợ tín
dụng của các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
37
chủ yếu là các nguồn vốn mang tính ngắn hạn, trong khi bất động sản đòi hỏi
có những khoản vay dài hạn, điều này dẫn đến những khó khăn nhất định
trong việc huy động nguồn vốn của các doanh nghiệp kinh doanh bất đống
sản.
Thứ hai, khó khăn trong hoạt động tín dụng bất động sản tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam đó là tỷ trọng trong cầu tín dụng về bất động sản
chênh lệch nhau rất lớn. Tín dụng kích cung bất động sản luôn chiếm tỷ trọng
lớn hơn so với tín dụng kích cầu bất động sản. Tín dụng kích cung bất động
sản bao gồm các khoản vay cho xây dựng căn hộ chung cư, xây dựng các khu
công nghiệp, khu đôi thị chiếm tỷ trọng tới hơn 70% trong khi tín dụng kích
cầu là các khoảng vay mua và sửa chữa nhà chiếm tỷ lệ khiêm tốn hơn nhiều
chỉ khoảng (20 đến 25%) đây chính là những khó khăn cho thị trường tín
dụng bất động sản vì điều này sẽ dẫn tới tình trạng sự gia tăng quá nhanh đi
đôi với mất cân đối về cơ cấu nguồn cung, cả cung thực tế và cung tiềm năng
BĐS, đặc biệt đặt trong mối tương quan bất đối xứng với cầu có khả năng
thanh toán đối với BĐS, cả cầu thực tế và cầu tiềm năng, khiến cho thị trường
BĐS hoặc mang đậm nét đầu cơ, tạo ra bong bóng BĐS hoặc dư cung khiến
cho tồn kho BĐS tăng vọt trong khi nhu cầu thật về BĐS còn rất cao lại chưa
được đáp ứng.
Trong khi đó, nguồn cung thị trường ngày càng tăng nhưng cơ cấu
hàng hóa bất động sản chưa cân đối giữa các phân khúc và các khu vực nên
không đáp ứng được nhu cầu của xã hội, khiến cho chênh lệch cung cầu ngày
càng tăng. Nhu cầu thực sự của người dân là ở những căn nhà có diện tích
nhỏ với giá thành hợp lý, phổ biến dưới 1 tỷ đồng (phù hợp với đại đa số
người có nhu cầu thật về nhà) thì chủ đầu tư, các nhà kinh doanh bất động sản
lại đưa ra các sản phẩm nhà ở với diện tích lớn và phổ biến ở mức hơn 1 tỷ,
như vậy Cung và Cầu bất động sản vẫn còn rất xa nhau và cần có một sự
38
thống nhất trong quản lý mới có thể hài hòa Cung – cầu bất động sản. Như
vậy vấn đề của bất động sản những năm qua là nằm ở chỗ do cơ cấu hàng
hóa không phù hợp.
Những khó khăn khác
- Quyền sở hữu và chính sách thị trường
BĐS là loại tài sản có giá trị rất lớn, do đó việc được pháp luật bảo vệ
quyền sở hữu và định đoạt đối với tài sản là BĐS là yếu tố rất quan trọng để
người có nhu cầu hoặc nhà đầu tư quyết định rót vốn đầu tư phát triển dự án
BĐS hoặc mua nhà ở. Mức độ bảo vệ quyền sở hữu, định đoạt tài sản của
pháp luật tỷ lệ thuận với quy mô đầu tư, chất lượng đầu tư và tính dài hạn của
việc đầu tư. Hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam chỉ công nhận quyền
sở hữu đối với nhà ở, công trình xây dựng trên đất, nhưng không công nhận
quyền sở hữu đối với đất đai, mà chỉ chứng nhận quyền sử dụng đất. Quy
định như vậy đã hạn chế rất lớn việc thu hút đầu tư, chất lượng, cũng như hiệu
quả của các dự án có sử dụng đất đai, kể cả sản xuất nông nghiệp.
Với thị trường BĐS Việt Nam, quyền sở hữu nhà ở thậm chí còn có
nhiều giới hạn đối với người nước ngoài và Việt kiều. Do đó, sự phát triển
của thị trường bị hạn chế rất nhiều về sức mua, nhất là đối với những dự án
hướng đến khách hàng là các đối tượng này như nhà ở cao cấp, dự án BĐS
nghỉ dưỡng. Việc hạn chế các đối tượng thực sự có khả năng chi trả đầu tư và
sở hữu BĐS đang gây ra sự lãng phí rất lớn cho việc sử dụng tài nguyên đất
đai một cách hiệu quả, làm giảm tính thanh khoản, sức hấp dẫn thu hút đầu tư
của ngành BĐS nói riêng và nền kinh tế nói chung.
- Chính sách thuế hạn chế đầu tư phát triển
Chính sách thuế luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho việc thúc
đẩy hoặc hạn chế một thị trường hàng hóa nào đó phát triển. Chính sách thuế
thường có 2 mục tiêu là điều tiết thị trường và thu ngân sách. Thị trường BĐS
39
có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về kinh tế và xã hội, rất cần sự thúc đẩy sản
xuất tạo ra nhiều sản phẩm. Một chính sách thuế đúng đắn, khôn ngoan sẽ
khuyến khích sản xuất: mức thuế suất thấp dành cho doanh nghiệp, đồng thời
với thu trên tiêu dùng và các hoạt động kinh tế, dịch vụ khi sản phẩm BĐS đã
được hình thành đưa vào sử dụng. Với chính sách vừa nêu, nguồn thu thậm
chí có thể lớn hơn rất nhiều so với việc tận thu khi hoạt động sản xuất mới
manh nha phát triển. Chính sách thuế của chúng ta hiện đang đi ngược lại
định hướng đó và hết sức phức tạp.
Trong khi hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh bị thu thuế rất cao, thì
những người có nhà ở, có tài sản lớn, sử dụng cùng một lúc nhiều căn nhà lại
không chịu bất kỳ một loại thuế nào. Dự án Luật thuế Nhà ở đã không được
Quốc hội thông qua, dù mức thu hàng năm là rất thấp. Đây là điều bất hợp lý
khi nhà sản xuất, kinh doanh phải chịu gánh nặng ngân sách thay cho người
sử dụng, người tiêu dùng, thậm chí là tiêu dùng xa xỉ.
2.3 Thực trạng tín dụng bất động sản tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam
2.3.1 Thực trạng tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
trong những năm (2008 -2012)
Tình hình huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam
qua các năm từ 2008 đến 2012
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng chủ yếu được hình thành từ
việc huy động các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư. Đây là lượng tiền nhàn
rỗi chủ yếu có được do việc người dân tiết kiệm tiêu dùng ở hiện tại để kỳ
vọng sẽ được chi tiêu nhiều hơn trong tương lai. Do đó công tác huy động vốn
của Ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố này. Nếu không có tiết kiệm
thì sẽ không có vốn để đầu tư cho sản xuất và ngược lại.
40
Yếu tố tiết kiệm của dân cư lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thu
nhập của dân cư, thói quen chi tiêu bằng tiền mặt và đặc biệt là sự ổn định của
nền kinh tế. Nếu nền kinh tế mất ổn định, giá trị đồng tiền luôn biến động thì
xu hướng chung của dân cư sẽ đổi các đồng tiền bản tệ ra các đồng tiền mạnh
(Ngoại tệ) hay cất trữ vàng bạc, mua bất động sản.. là những tài sản có tính ổn
định cao hơn.
Ngoài ra việc phân bố dân cư ở các vùng lãnh thổ khác nhau thì yếu tố
tâm lý, văn hoá và lối sống cũng khác nhau. Do đó, ngân hàng phải nắm bắt
được yếu tố tâm lý của dân từ đó để đưa ra các hình thức huy động vốn phù
hợp.
Hình 2.1 Tình hình tăng trưởng huy động và tăng trưởng tín dụng
60
50
40
Tang truong huy dong
30
Tang truong tin dung
20
10
0
2007
2008
2009
2010
2011
Aug-12
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong sự lưu thông tiền tệ của nền
kinh tế. Bên cạnh vai trò quan trọng này, tín dụng cũng gây ra sự mất cân đối
giữa tiền và hàng, tạo nên hậu quả lạm phát cao. Một trong những chỉ tiêu mà
41