1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 3CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CHO THỊTRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.11 KB, 96 trang )


của các thành phần kinh tế, bằng vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng, bằng

huy động tiền tiết kiệm của dân thông qua chứng khoán BĐS;

- Hoàn thành hệ thống đăng ký BĐS, cấp giấy chứng nhận về BĐS

thống nhất, công khai, minh bạch, tạo bước ngoặt trong cải cách thủ tục hành

chính, người dân có điều kiện giám sát việc thực thi pháp luật, có công cụ tích

cực chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong quản lý đất đai, minh bạch

hoá việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất cũng như việc tính toán bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; giúp giải quyết triệt để tình trạng

tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai

3.1.1 Ngân hàng Nhà nước

Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khai thác và huy động tối đa các

nguồn lực tài chính trong và ngoài nước cho phát triển nhà ở nói riêng và thị

trường BĐS nói chung.

Để thị trường BĐS phát triển bền vững cần xây dựng hệ thống tài chính

riêng. Tuy nhiên, trước mắt khi còn phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân

hàng, chính sách tài chính tiền tệ cần linh hoạt để vừa bảo đảm không tạo ra

bong bóng nhưng cũng không thắt chặt gây đình trệ và đóng băng thị trường.

Cần thiết xây dựng cơ chế và chính sách để thu hút và đa dạng hóa các nguồn

lực của xã hội, để khai thông các nguồn vốn trong dân, thu hút vốn đầu tư

nước ngoài, tạo kênh dẫn từ các nguồn tiền nhàn rỗi như vốn kinh doanh vàng

miếng, ngoại tệ, sang thị trường BĐS, từ đó sẽ có một nguồn tài chính dài hạn

thay thế đáng kể nguồn vốn tín dụng ngắn hạn của ngân hàng.

Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình cấp tín dụng của các ngân

hàng thương mại đối với thị trường bất động sản

Ngân hàng nhà nước cần tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình cấp

tín dụng của các TCTD đặc biệt là các ngân hàng thương mại đối với tín dụng



61



bất động sản, phát hiện kịp thời các khoản nợ quá hạn, nợ xấu ảnh hưởng đến

chất lượng tín dụng; kiểm soát hiện tượng đầu tư nội bộ của các ngân hàng,

TCTD vào BĐS (dự án BĐS thường là của các cổ đông lớn của ngân hàng) để

dòng tiền đến đúng nơi, được sử dụng đúng mục đích;

Ngân hàng thương mại cần bắt tay và cùng phối hợp với các doanh

nghiệp BĐS, xem xét cụ thể đối với các dự án đầu tư phát triển BĐS thiết yếu

cho dân sinh và phát triển kinh tế. Chỉ nên hạn chế cho những người vay để

mua đi bán lại BĐS kiếm lời làm méo mó thị trường, còn những người có nhu

cầu thực sự vẫn cần cho vay để cải thiện nhà ở;

Cần xem xét cụ thể đối với các dự án đầu tư phát triển BĐS thiết yếu

cho dân sinh và phát triển kinh tế, các dự án đang thực hiện dở dang và cần

gấp rút hoàn thiện. Cần tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh các chương trình xây

dựng nhà ở xã hội cho sinh viên, nhà ở cho công nhân khu công nghiệp và

nhà ở cho người có thu nhập thấp để giải quyết khó khăn về nhà ở cho người

dân. Cần nới rộng cho vay mua nhà chung cư bình dân và nhà ở xã hội cho

dân nghèo thành thị.

Điều chỉnh linh hoạt và hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia.

Thị trường bất động sản của Việt Nam hiện nay đang phụ thuộc rất lớn

vào hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ. Vì vậy, nếu kinh tế vĩ mô ổn

định, hệ thống ngân hàng được tái cấu trúc lành mạnh, chính sách tiền tệ sẽ

hướng đến tạo thuận lợi cho thị trường bất động sản. Khi đó, thị trường bất

động sản sẽ có cơ hội phát triển. Ngược lai,nếu tình hình kinh tế vĩ mô khó

khăn, hệ thống ngân hàng thương mại thất bại trong công cuộc tái cấu trúc,

chính sách tiền tệ sẽ thắt chặt. Khi đó, thị trường bất động sản sẽ lâm vào tình

trạng khó khăn hơn nữa, ít nhất là trong ngắn hạn.



62



Các nhà hoạch định, điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là chính

sách tiền tệ- tín dụng lại điều hành mang nặng tính nhất thời trong việc nới

lỏng hay thắt chặt chính sách này.

Chính vì lý do đó cần nghiên cứu, xem xét một cách thấu đáo, cân nhắc

thiệt hơn khi ban hành chính sách tài chính mới, phải tính toán cho được

những được mất mà chính sách này mang lại. Chỉ khi giải quyết cho được vấn

để đó mới nên ban hành chính sách mới. Chẳng hạn khi tiến hành các biện

pháp thắt chặt tín dụng từ hệ thống ngân hàng cho thị trường bất động sản thì

phải có những giải pháp thay thế kênh cung cấp tài chính cho thị trường bất

động sản

Sớm hình thành và đưa vào hoạt động công ty mua bán nợ quốc gia

NHNN cần sớm hoàn thiện đề án thành lập công ty mua bán nợ quốc

gia nhằm giải quyết khối lượng nợ xấu, đẩy nhanh tính thanh khoản cho toàn

bộ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên việc xây dựng và đưa vào hoạt động công

ty mua bán nợ cần phải nghiên cứu một cách khoa học về mặt được và cả

những hậu quả có thể hình thành và xảy ra trong tương lai.

Hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động mua bán nợ, mua bán

tài sản đảm bảo, giải thể, sáp nhập, mua bán các công ty, doanh nghiệp, đẩy

mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp theo chủ trương, tài sản thế chấp phần lớn là

bất động sản, nếu khai thông được thị trường này, nợ xấu mới được giải

quyết. Xử lý nợ xấu trong bất động sản chính là xử lý nợ xấu của ngân hàng

và của cả nền kinh tế.

Vì vậy việc NHNN đang hoàn thiện đề án thành lập công ty mua bán

nợ có quy mô vào khoảng 60.000 - 100.000 tỷ đồng nhằm mục đích cải thiện

tính thanh khoản cho toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại.

Hiện nay, các ngân hàng cũng đang tích cực xử lý nợ xấu thông qua

việc xóa nợ, dãn nợ, chấp nhận giảm lợi nhuận để tăng trích lập quỹ dự



63



phòng. Giải quyết nợ xấu phải xác định là cứu nền kinh tế, chứ không phải

cứu ngân hàng, hay cứu bất động sản. Một khi nợ xấu được giải quyết thì

mạch máu trên cơ thể kinh tế mới lưu thông tốt.

Có thể nói ưu điểm lớn nhất của một công ty mua bán nợ quốc gia, nếu

ra đời, sẽ là một hướng đi rõ ràng hơn trong tiến trình xử lý nợ xấu ngân hàng,

là tổ chức cụ thể hóa các chính sách của nhà nước trong việc tháo gỡ những

khó khăn cho hệ thống ngân hàng thương mại.

Nhược điểm lớn nhất mà hệ thống ngân hàng phải chấp nhận lúc này,

nhằm tạo sức mạnh cho một công ty mua bán nợ quốc gia có thể hành động

hiệu quả, vẫn là phải minh bạch và rõ ràng mọi số liệu. Tương tự, khối doanh

nghiệp Nhà nước cũng như toàn bộ nền kinh tế cũng cần phải có sự minh

bạch, rõ ràng trong các số liệu dư nợ tín dụng, nợ xấu tín dụng, thậm chí là

phải là tường minh các mối quan hệ sở hữu chéo ở quy mô doanh nghiệp Nhà

nước với ngân hàng, ngân hàng với ngân hàng hay ngân hàng với doanh

nghiệp. Khi chấp nhận những mù mờ số liệu cần thiết phải tường minh, cái

“được” của những đề xuất hôm nay sẽ không chỉ còn nằm trên giấy.

Một tình huống khá phức tạp cho thấy phần lớn nợ xấu của các tổ chức

tín dụng lại là của doanh nghiệp nhà nước ,và câu hỏi tiếp theo sẽ là công ty

mua bán nợ quốc gia sẽ xử lý nợ xấu, phần lớn là nợ của các doanh nghiệp

Nhà nước ra sao, khi muốn giải quyết nợ xấu tại khu vực này bằng phương

thức bán tài sản hoặc cổ phần nhà nước theo giá thị trường?

Phương thức đều gặp khó không chỉ bởi thị trường suy thoái và hoạt

động cổ phần hóa theo giá thị trường đang chậm lại, mà còn bởi việc định giá

tài sản và kêu gọi nhà đầu tư tham gia vào mua vốn, mua nợ, mua tài sản của

doanh nghiệp Nhà nước đều sẽ bị vướng các rào cản, quy định pháp lý về tỷ

lệ góp vốn, sở hữu..., các quy định dành cho nhà đầu tư, tổ chức đầu tư nước



64



ngoài, một đối tượng được kỳ vọng sẽ là một trong những “khách hàng

chính” của công ty mua bán nợ quốc gia trong tương lai.

Nghiên cứu hình thành thị trường cầm cố thứ cấp (chứng khoán

hóa) bất động sản

Để giải quyết vấn đề tài chính cho thị trường nhà ở, bất động sản tại các

nước có nền kinh tế thị trường phát triển, Nhà nước tập trung phát triển thị

trường cầm cố, thế chấp với mục đích tạo ra các nguồn tài chính phục vụ sản

xuất và tiêu dùng, nhà ở được đảm bảo bởi chính các tài sản là nhà ở đã hình

thành hoặc chắc chắn sẽ hình thành trong tương lai.

Thị trường trực tiếp cho vay của tổ chức tín dụng đến người mua hoặc

doanh nghiệp đi vay được gọi là thị trường cầm cố sơ cấp. Tại thị trường này

có thể xảy ra rủi ro về tính thanh khoản cho các tổ chức tín dụng cho vay khi

người vay trả lãi - gốc không đúng hạn hoặc đơn giản là tổ chức tài chính cần

tiền cho mục đích kinh doanh khác nhưng các khoản cho vay thì chưa đến hạn

trả, tổ chức tín dụng sẽ bị lâm vào “thế kẹt” tiền mặt.

Để khắc phục nhược điểm này của thị trường cầm cố sơ cấp, các nước

phát triển thành lập “thị trường cầm cố thứ cấp”. Tại đây, các tổ chức tín dụng

có thể mua bán những khoản cầm cố sơ cấp ( mua bán nợ) để tạo tính thanh

khoản cho các khoản tín dụng này.

Ở mức độ tổ chức thị trường cao hơn, hệ thống tín dụng còn có thể

chứng khoán hóa các khoản tín dụng tại thị trường tài chính tạo tính thanh

khoản cho tín dụng cầm cố nhà ở. Tham gia vào thị trường cầm cố thứ cấp

này là rất nhiều tổ chức tài chính, các quỹ nhà ở, quỹ đầu tư, ngân hàng, quỹ

bảo hiểm, tiêt kiệm, hưu trí, công ty tài chính...

Thị trường cầm cố thứ cấp càng phát triển thì nguồn tài chính dành cho

vay đầu tư, kinh doanh và tiếp thị sản phẩm nhà ở bất động sản càng dồi dào,



65



dài hạn với lãi suất chấp nhận được. Sức mua của thị trường từ đó sẽ tăng lên,

tạo tiền đề cho sản xuất và phát triển nhà ở.

Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có một thị trường cầm cố sơ cấp rất thô

sơ và nhiều rủi ro do thiếu tính thanh khoản nên thị trường nhà ở phát triển rất

yếu, sức mua kém và sản phẩm ít ỏi dẫn đến thường xảy ra biến động giá cả

và nhu cầu nhà ở của người dân không được đáp ứng.

Điều này là do thị trường tài chính chưa phát triển nên nguồn vốn trong

thị trường bất động sản phụ thuộc hoàn toàn vào ngân hàng. Và khi có những

biến động xảy ra như hiện nay rõ ràng ảnh hưởng rất lớn tới thị trường bất

động sản.

Để khắc phục nhược điểm này chúng ta nên nghiên cứu một cách khoa

học, đưa ra các cơ sở khoa học mang tính khả thi cao, xây dựng hành lang

pháp lý chặt chẽ, tiếp thu phản biện về việc hình thành thị trường cầm cố thứ

cấp (chứng khoán hóa) để xây dựng một thị trường nhà ở, bất động sản phát

triển đủ sức đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân, điều quan trọng nhất là

Nhà nước cần xây dựng được một thị trường cầm cố nhà ở phát triển cả về

cấp độ sơ cấp lẫn thứ cấp, có nhiều công cụ tài chính hỗ trợ và nhiều tổ chức

tài chính tham gia kinh doanh, hoạt động. Như vậy, mới giải quyết được bài

toán vốn cho thị trường nhà ở, bất động sản thỏa mãn cho nhu cầu nhà ở của

người dân.

Giải pháp hỗ trợ lãi suất cho một số nhóm đối tượng có nhu cầu

mua nhà thực..

Hiện nay có một bộ phận rất lớn có nhu cầu mua nhà để ở, đó là các

nhóm đối tượng như cán bộ, công chức, viên chức, quân nhân, người lao động

phục vụ trong các lực lượng vũ trang... có thu nhập ổn định. Hỗ trợ nhóm đối

tượng này tiếp cận được với thị trường bất động sản để họ kiếm cho mình

những sản phẩm bất động sản phù hợp với túi tiền và khả năng thanh toán của



66



họ cũng chính là một trong những giải pháp quan trọng tháo gỡ những khó

khăn cho thị trường bất động sản hiện nay.

Một khi Ngân hàng nhà nước đưa ra các chính sách hỗ trợ lãi suất với

các nhóm đối tượng cán bộ công chức, viên chức, quân nhân công tác tại các

đơn vị lực lượng vũ trang... đây là những đối tượng có việc làm và thu nhập

ổn định và có thu nhập bình quân cao hơn so với thu nhập bình quân đầu

người của cả nước. Với những đối tượng này thì những khoản vay mang tính

dài hạn (trên 10 năm) và hỗ trợ lãi suất ở mức từ 4-6%/1 năm để có thể mua

nhà để ở là hoàn toàn khả thi. Giải pháp này được xem như là một trong

những giải pháp cần áp dụng ngay trong hoàn cảnh hiện nay nó không chỉ góp

phần giải quyết hàng tồn kho bất động sản mà nó còn giúp cho đối tượng này

giải quyết được nhu cầu về nhà ở.

3.1.2 Bộ Xây dựng

Nâng cao chất lượng hiệu quả của việc xây dựng quy hoạch, quản

lý quy hoạch về xây dựng đô thị.

Bộ Xây dựng cần hoàn thiện quy hoạch, quản lý chất lượng công trình,

xây dựng nhà ở xã hội, Bộ cần phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đặc

biệt, nâng cao chất lượng hiệu quả của việc xây dựng quy hoạch, quản lý quy

hoạch về xây dựng đô thị. Bộ cần rà soát lại thể chế luật pháp về quy hoạch

xem những quy định nào không phù hợp với thực tế phải chỉnh sửa và ban

hành quy định mới. Bên cạnh đó, tiến hành hoàn thiện các quy hoạch chi tiết,

phân khu chức năng cho phù hợp. Đây không chỉ là nhiệm vụ trọng tâm

ngành xây dựng có ý nghĩa quyết định để đất nước đi lên phát triển văn minh

hiện đại.

Những năm vừa qua do phát triển không căn cứ theo quy hoạch và kế

hoạch mà chủ yếu theo phong trào, tự phát đã đẩy thị trường bất động sản vào

thế cung vượt cầu, trung gian đầu cơ phát triển nhanh và mạnh chứ sản phẩm



67



không đến được tận tay người tiêu dùng. Thị trường phải hướng vào nhu cầu

thực, người tiêu dùng với nhu cầu cụ thể về phân khúc và loại trừ khâu trung

gian đây mà điều mà Bộ Xây dựng cần rút kinh nghiệm và sớm triển khai

nhiệm vụ một cách đồng bộ giúp thị trường bất động sản phát triển nhanh và

bền vững.

Trong tình hình thực tế hiện nay Bộ Xây dựng sớm ban hành mới bộ

quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn thiết kế chung cư căn hộ vừa và nhỏ để các

doanh nghiệp có cơ sở thực hiện. Ngoài ra đề nghị Bộ bãi bỏ quy định tỷ lệ

căn hộ trong chung cư theo công thức 1-2-1 (25% căn hộ diện tích nhỏ, 50%

căn hộ diện tích trung bình, 25% căn hộ diện tích lớn), mà để doanh nghiệp tự

lựa chọn cho phù hợp với nhu cầu của thị trường và phù hợp với quy hoạch…

Cần căn cứ vào thu nhập thực tế của người dân để qua đó cung cấp

những sản phẩm bất động sản phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả của

người dân, cần tập trung xây dựng nhà ở xã hội có giá trị phù hợp với khả

năng thanh toán của đại đa số người có nhu cầu mua nhà hơn là cung ứng

những sản phẩm bất động sản phục vụ các mục đích khác không phù hợp với

nhu cầu thực tế của người mua.

Xây dựng và hoàn thiện các định chế của thị trường bất động sản

một cách đồng bộ

Thị trường bất động sản là một bộ phận cấu thành của thị trường hàng

hóa, nó cũng tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, do đó hoàn thiện định

chế thị trường bất động sản và tập trung phát triển doanh nghiệp xây dựng là

một trong những nhiệm vụ trọng tâm ngành xây dựng năm 2012 và các năm

tiếp theo.

Bộ Xây dựng sẽ phải chủ động đưa ra các giải pháp tháo gỡ như hoàn

thiện hệ thống chính sách pháp luật theo hướng đồng bộ từ trung ương đến

địa phương, phù hợp với quy hoạch theo nhu cầu cân đối cung cầu cũng như



68



tốc độ phát triển dân số và mật độ dân cư. Việc phát triển nhà ở cần được lập

kế hoạch hóa dài hạn, trung hạn và thậm chí là theo hàng năm; cùng đó là lập

kế hoạch sử dụng đất một cách chi tiết cụ thể.

Theo đó Bộ Xây dựng phải hoàn thiện các định chế của thị trường một

cách đồng bộ trong một chỉnh thể thống nhất bởi thị trường bất động sản là thị

trường đang còn nhiều vướng mắc. Bộ Xây dựng cần phải dành thời gian

nghiên cứu chiến lược phát triển, thống nhất nhận thức quan điểm phát triển

đến mục tiêu giải pháp.

Bên cạnh đó Bộ xây dựng cũng cần phải quan tâm phát triển các doanh

nghiệp trong ngành xây dựng, tạo môi trường điều kiện, vừa thông thoáng

thuận lợi, vừa chặt chẽ, nâng cao chất lượng hiệu quả doanh nghiệp từ tư vấn

xây dựng đến thi công trình xây dựng. Cần nghiên cứu đưa khoa học công

nghệ, tái cơ cấu tổ chức doanh nghiệp để thích ứng với kinh tế thị trường. Sắp

xếp lại doanh nghiệp hiệu quả thấp, thua lỗ trở thành doanh nghiệp hiệu quả

cao.

Trong những năm qua, hệ thống chính sách phát triển thị trường rất hay

thay đổi, nhiều khi thay đổi đột ngột làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung

của thị trường. Cụ thể, cho đến nay, để có thể tiến hành tính toán các chỉ số

liên quan đến thị trường BĐS thì một trong những chỉ tiêu cơ bản là số lượng

diện tích xây dựng trên địa bàn; số lượng vốn đầu tư vào BĐS trên địa bàn; số

lượng giao dịch và giá trị giao dịch thật sự trên địa bàn ... hiện vẫn chưa có

câu trả lời thỏa đáng. Hệ thống thống kê hiện tại vẫn chỉ đang thống kê vật

chất thay vì thống kê về giá trị, hướng tới tín hiệu thị trường vì vậy với vai trò

quản lý chuyên ngành Bộ Xây dựng cần tham mưu cho Chính Phủ và các địa

phương tiến hành rà soát, thông kê giúp cung cấp một cái nhìn tổng thể, đa

chiều về thị trường Bất động sản, những khó khăn, thách thức những thuận lợi

góp phần giúp thị trường BĐS phát triển tốt hơn.



69



Đẩy nhanh việc xây dựng quỹ tiết kiệm nhà ở.

Quỹ tiết kiệm nhà ở đang được Bộ Xây dựng đang triển khai tiến hành

một cách khẩn trương, việc này không chỉ đơn thuần là kênh giải quyết tài

chính nhà ở cho đối tượng xã hội có nhà mà còn là một kênh thu hút và cung

ứng vốn đầu tư cho thị trường bất động sản. Ngoài ra có thể nghiên cứu để có

thể thực hiện việc huy động nguồn quỹ tiết kiệm nhà ở từ các quỹ khác như

quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm…

Bộ Xây dựng cũng cần tập trung phát triển nhà ở xã hội tới 8 nhóm đối

tượng khó khăn, trên tinh thần Nhà nước phải có hỗ trợ, có phần đóng góp

của xã hội, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phải điều chỉnh, cụ thể hóa bằng nghị

định, quyết định, cơ chế chính sách. Đây là nhiệm vụ chính trị cần phải hết

sức quan tâm. Trong chiến lược này nhà nước có hỗ trợ bằng nguồn lực đất

đai… trong đó tiền sử dụng đất trung ương đã để lại cho địa phương 100%.

Lãnh đạo các địa phương, sở ban ngành phải trích 1 phần để đầu tư phát triển

nhà ở xã hội.

Bộ Xây dựng đã kiến nghị thành lập 2 mô hình tiết kiệm nhà ở cho

người thu nhập thấp và cá nhân, hộ gia đình khác có nhu cầu mua nhà ở

thương mại và quỹ dự kiến vận hành từ năm tới.

Theo đó, mô hình thứ nhất là Quỹ Tiết kiệm phát triển nhà ở xã hội cho

người có thu nhập thấp, hộ nghèo tại đô thị vay để mua, thuê mua nhà ở xã

hội và doanh nghiệp trong nước vay để đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Nguồn

vốn hình thành quỹ hình thành từ vốn hiện có của Quỹ phát triển nhà ở (bao

gồm tối thiểu 10% tiền thu được từ chuyển quyền sử dụng đất của các dự án

phát triển nhà ở thương mại, ngân sách địa phương); lợi nhuận thu được từ

phát hành xổ số kiến thiết... Hình thức tham gia quỹ là tự nguyện, không bắt

buộc.



70



Cá nhân, hộ gia đình tham gia phải đóng vào quỹ ít nhất khoảng 30%

tổng số tiền dự kiến vay để mua, thuê mua nhà ở xã với mức tối thiểu trong

thời gian 5 năm. Mức tiền được vay thêm tối đa bằng 2 lần tổng số tiền đã

đóng vào quỹ. Thời gian trả nợ trong vòng 15 năm với mức lãi suất cho vay

trong khoảng 6,5-8,5%. Trường hợp người tham gia không có nhu cầu vay để

tạo lập hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở thì sẽ được quỹ thanh toán cả gốc và lãi

nhưng mức lãi suất được hưởng sẽ cao hơn lãi suất huy động ban đầu là 2%

mỗi năm.

Doanh nghiệp có nhu cầu vay phải có dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã

hội và đã có thiết kế kỹ thuật của dự án được phê duyệt. Số tiền được vay tối

đa bằng 50% tổng vốn đầu tư xây lắp của dự án nhà ở xã hội (bao gồm cả chi

phí trang thiết bị của nhà ở đó);

Mô hình thứ hai là hai thành lập Quỹ Tiết kiệm nhà ở để cho các cá

nhân, hộ gia đình trong nước vay mua nhà ở thương mại, trong đó chủ yếu tập

trung cho đối tượng có thu nhập từ trung bình trở lên vay. Việc huy động vốn,

cơ chế cho vay, tính lãi suất huy động, lãi suất cho vay, cơ cấu tổ chức, cơ chế

tài chính, nguyên tắc hoạt động của Quỹ tiết kiệm nhà ở này do Thủ tướng

quyết định.

Ngoài ra, cần có chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển căn hộ

bán trả góp dài hạn 20 - 30 năm với lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện cho người có

một phần điều kiện tài chính và có thu nhập ổn định có khả năng sở hữu căn hộ.

3.2 Các giải pháp cụ thể đối với ngân hàng thương mại và các tổ

chức tín dụng

3.2.1 Tăng tỷ lệ tín dụng kích cầu bất động sản

Tín dụng kích cầu về bất động sản hướng tới đáp ứng nhu cầu về bất

động sản tuy không thể loại bỏ hết những nhà đầu tư, đầu cơ bất động sản vay

tiền để kinh doanh thì tuyệt đại đa số sử dụng tín dụng kích cầu là những



71



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

×