Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 107 trang )
luôn coi đất đai là một vấn đề hệ trọng và là mục tiêu đấu tranh cách mạng. Trong
mỗi giai đoạn lịch sử Đảng và Nhà nước ta luôn đổi mới về chính sách đất đai cho
phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Gắn với công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp giải phóng dân tộc khẩu
hiệu: "Độc lập dân tộc và người cày có ruộng" đã thực sự trở thành một động lực
to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng đã ghi: Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản. Cách mạng Việt Nam phải giải quyết hai nhiệm vụ chiến
lược là đánh đổ đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và xoá bỏ chế độ Phong
kiến giành ruộng đất về cho nông dân.
Cách mạng tháng 8 thành công. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời. Mặc dù còn non trẻ, thêm vào đó là cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp xâm lược, nhưng Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến vấn đề đất đai.
Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp 1959 đã khẳng định có 3 hình thức sở hữu
ruộng đất (Nhà nước, tập thể, cá nhân), trong đó sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể
là cơ bản và được ưu tiên. Mặc dù luật pháp thời kỳ này không hoàn toàn nghiêm
cấm việc mua bán đất đai, nhưng quan hệ mua bán đất đai thờ i kỳ này diễn ra rất
hạn chế bởi lẽ: do trình độ phát triển của nền kinh tế, của phân công lao động xã
hội còn lạc hậu, thêm vào đó là tác động của tiến trình "công hữu hoá ruộng đất"
cũng như tiến trình hình thành nền kinh tế chỉ huy, tập trung - Phi hàng hoá. Cho
nên, việc nhượng bán đất đai chỉ diễn ra với mức độ không phổ biến và ở phạm vi
hẹp gắn với đất ở là chủ yếu. Thị trường đất đai không được pháp luật thừa nhận
trên thực tế, quan hệ mua bán đất đai mang tính chất tự phát và nằm ngoài sự kiểm
soát của pháp luật.
2.1.2 Giai đoạn từ năm 1980 - 1993
Có thể nói vào những năm 1980 nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn
tiền đổi mới - giai đoạn cố gắng khắc phục sửa chữa những yếu kém của cơ chế
kinh tế chỉ huy tập trung. Giao dịch đất đai, thị trường đất đai chưa được thừa nhận
về mặt pháp lý nhưng chính giai đoạn này đã bắt đầu nảy sinh những mốc điểm
mới trong nhận thức, lý luận về đất đai và trong thực tiễn về các quan hệ kinh tế
nảy sinh gắn với đất đai.
Hiến pháp 1980 và sau đó là luật đất đai 1987 đã nghiêm cấm viêc mua bán
đất đai. Nhà nước điều tiết các quan hệ đất đai bằng hành chính là chủ yếu dựa trên
quan điểm lấy hiện vật (đất đai) để điều tiết thông qua cơ chế " Giao - thu " Không
cho phép người sử dụng đất được chuyển nhượng QSD đất cho nhau. Luật pháp
thời kỳ này không thừa nhận giá đất và thị trường đất đai. Nhưng thực tiễn phát
triển của nền kinh tế đã đặt ra những yêu cầu mới: Trước sự chuyển mình của nền
kinh tế đất nước thời kỳ trước đổi mới. Quá trình phân công lao động trong xã hội
bắt đầu được đẩy mạnh, nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường bắt đầu hình thành
trong nền kinh tế đã tạo ra cơ sở, tiền đề cho quan hệ chuyển nhượng mua bán đất
đai được diễn ra ngày một phổ biến hơn, đặc biệt là khi các dự án nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam trong đó có việc thuê đất để thực hiện dự án, việc thay đổi mục
đích sử dụng đất để phục vụ cho công nghiệp. Việc chuyển nhượng đất đai là một
yêu cầu thực tế khách quan - tất yếu của cuộc sống, nhất là đối với những đòi hỏi
nảy sinh trong tiến trình đổi mới nền kinh tế. Nhu cầu hình thành thị trường BĐS,
thị trường đất đai trở nên bức xúc sau năm 1986, khi đất nước bắt tay vào công
cuộc đổi mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đường lối đổi mới
đề ra trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
Tuy nhiên, trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, kinh tế thị trường còn
hết sức mới mẻ đối với chúng ta. Nhận thức của đa số người dân còn rất mờ nhạt
về các thị trường mới lạ như: Thị trường Lao động, thị trường tài chính, thị trường
BĐS... Đối với thị trường đất đai cũng vậy. Nhận thức của người dân cũng như
nhận thức của người quản lý về đất đai, còn mang nặng cơ chế cũ - cơ chế kinh tế
chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp. Nhằm cụ thể hoá hơn nữa chế độ sở hữu đất
đai, khắc phục tình trạng quản lý đất đai kém hiệu quả trong suốt thời gian dài kể
từ khi ban hành Hiến pháp 1980, ngày 29 tháng 12 năm 1987 luật đất đai mới gồm
6 chương, 57 điều đã được Quốc hội thông qua. Đây là sự kiện quan trọng mở đầu
cho việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đất đai trên nền tảng Hiến pháp, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của xã hội. Nhiều vấn đề trước đây chưa có văn bản pháp quy nào
đề cập một cách toàn diện và cụ thể, lần đầu tiên được điều chỉnh thông qua các
quy phạm của luật đất đai 1987. Trong đó quan trọng nhất là những quy định về
những đối tượng được nhà nước giao đất để sử dụng lâu, dài sử dụng có thời hạn
và sử dụng tạm thời (điều 1); các nguyên tắc sử dụng đất đai, chế độ sử dụng đất
đai; đặc biệt luật đã quy định một cách cụ thể và có hệ thống quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất...
Sau khi luật đất đai được ban hành, hàng loạt văn bản pháp quy phục vụ cho
việc thi hành đạo luật quan trọng này lần lượt ra đời, trong đó đáng chú ý nhất là:
Nghị quyết 10/ NQ - TƯ ngày 5/4/1988 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp đã khẳng định: "Các hộ nông dân được Nhà nước giao đất ổn định,
lâu dài để sản xuất, ... bảo đảm cho người nhận khoán canh tác trên diện có quy
mô thích hợp để ổn định trong khoảng 15 năm". Chính điều này, một mặt đã làm
cho mọi người dân yên tâm sử dụng đất đai, chủ động đầu tư phát triển kinh tế, tạo
ra nguồn nội lực vô cùng to lớn cho nền kinh tế thời kỳ này phát triển. Mặt khác,
nó tạo ra cơ hội, cách nhìn nhận đúng đắn về sức mạnh to lớn của lợi ích cá
nhân, cũng như sở hữu tư nhân trong phát triển kinh tế đất nước.
Cùng với những thành tựu của đổi mới, người dân có cơ hội về kinh doanh,
việc làm và thu nhập, Nhà nước lới lỏng nhiều thủ tục, đặc biệt là thủ tục về hộ
khẩu ở thành thị; quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng đầu tư tăng nhanh, đặc
biệt là đầu tư nước ngoài, nhu cầu về đất đai cho công nghiệp, thương mại và xây
dựng nhà ở tăng nhanh. Tại các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố HCM, do tốc độ
đô thị hoá cao, tỷ lệ tăng dân số cơ học tăng nhanh, cùng với việc Nhà nước thực
hiện chính sách bỏ chế độ bao cấp về nhà ở, thay vào đó là chủ trương Nhà nước
và nhân dân cùng làm. Các giao dịch về BĐS bắt đầu sôi động, đặc biệt là giao
dịch về nhà ở, đất ở. Ngoài những giao dịch trong dân cư, các doanh nghiệp Nhà
nước cũng là những nhân tố tích cực trong quá trình này. Giao dịch trên thị trường
BĐS chủ yếu thực hiện thông qua hình thức sang nhượng nhà ở, nhà xưởng cùng
với quyền sử dụng đất. Trên thực tế, các quan hệ giao dịch về đất đai được che đậy
một cách trá hình dưới dạng bán nhà, bán xưởng... và diễn ra ngoài vòng pháp luật
là chủ yếu.
Kinh tế thị trường càng mở rộng, nhu cầu về đất càng bức xúc, những vướng
mắc cũ trong lĩnh vực đất đai giải quyết chưa xong, thì nảy sinh thêm những khó
khăn mới: Giá đất tăng cao, " Hàng hoá đất đai " không được đánh giá đúng và
nhất quán , việc giao, cho thuê, đất không được điều chỉnh thống nhất, việc cấp
giấy chứng nhận QSD đất bị trì trệ, các vấn đề chuyển dịch, thừa kế về đất đai
chưa rõ ràng, chưa có quy định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển
nhượng đất đai của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp Nhà nước. Cùng với việc
Nhà nước giao đất cho các doanh nghiệp Quốc doanh để góp vốn liên doanh với
nước ngoài, hệ thống tín dụng nhân dân bị đổ bể, nhà cửa được phát mại để trả nợ,
việc duy trì tình trạng tỷ giá giữa đồng VNĐ so với đồng đô la Mỹ ở mức quá cao
so với tỷ giá thực, cộng thêm vào đó là sự tan vỡ của các nước XHCN Đông Âu,
người Việt Nam trở về nước với những khoản thu nhập có được ... Trong bối cảnh
đó thị trường bất động sản, đất đai đã bùng nổ, mà chủ yếu là cơn sốt đất đai, với
mức giá nhảy vọt đã để lại những hệ quả phức tạp, có mặt tiêu cực cho đến nay vẫn
chưa giải quyết được như quỹ đất bị lạm dụng và lãng phí, sự bất bình đẳng về cơ
hội làm ăn, kiện cáo kéo dài...
Trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, đặc biệt là về đất đai, mặc
dù pháp luật không thừa nhận thì ở giai đoạn này quan hệ mua bán chuyển nhượng
đất đai đã diễn ra ngày một sôi động hơn, theo những "kênh ngầm" nằm ngoài sự
kiểm soát của Nhà nước. Trước những đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn phát triển
kinh tế và đời sống xã hội, với việc ra đời của luật Đầu tư nước ngoài tại việt
nam. Bộ Tài chính đã ra quyết định Số 210a/VP ngày 1/4/1990, quy định khung
giá cho các dự án nước ngoài đầu tư vào Việt nam thuê mặt đất, mặt nước, mặt
biển để tiến hành đầu tư. Có thể nói đây là mốc điểm báo hiệu sự thay đổi trong
nhận thức và chính sách về vấn đề đất đai, quan hệ đất đai trong nền kinh tế
Việt Nam nói chung và thị trường đất đai nói riêng.
Trước tình hình đó, nhiều điều khoản của luật đất đai năm 1987 đã không
đáp ứng được đủ các yêu cầu của thực tế. Trên cơ sở đòi hỏi cấp bách của thực tiễn
phát triển kinh tế, cũng như sự vận động của đời sống xã hội. Căn cứ vào Hiến
pháp sửa đổi năm 1992 ( điều 17,18 ), ngày 17/7/1993 Quốc hội đã thông qua luật
đất đai mới, thay thế cho luật đất đai 1987 với 7 chương, 89 điều. Luật đất đai
1993 ra đời trên cơ sở thừa nhận đất đai là hàng hoá đặc biệt có giá và QSD đất
là một quyền tài sản được trao đổi, chuyển nhượng trên thị trường. Thông qua
việc chuyển QSD đất đã chính thức đặt nền móng cho sự hình thành thị trường
đất đai ở nước ta.
2.1.3 Giai đoạn 1993 - nay
Từ năm 1993, thị trường đất đai chuyển sang một giai đoạn mới. Giai đoạn
này được đánh dấu bởi sự ra đời của luật đất đai năm 1993 và hệ thống các văn bản
pháp quy triển khai các nội dung của luật này. Luật đất đai năm 1993 đã cụ thể hoá
một bước điều 18 Hiến pháp 1992, quy định hộ gia đình , cá nhân được Nhà nước
giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế thế chấp QSD đất
( điều 3, khoản 3 ). Theo luật này, đất đai bắt đầu được xác định là tài sản có giá,
và giá đó được thể hiện thông qua chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tiếp đó là
bộ luật dân sự 1995 đã cụ thể hoá việc chuyển QSD đất đối với hộ gia đình và cá
nhân sử dụng đất,(từ điều 690 đến điều 774 ). Tuy nhiên, luật đất đai 1993 ra đời
trong bối cảnh thị trường đất đai đang sốt cao, việc ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành luật vừa chậm trễ vừa bị chi phối bởi các mục tiêu mang tính chất tình
thế, đồng thời lại có giá trị hồi tố, lấy mốc là thời điểm luật 1993 ban hành, dẫn
đến việc tạo kẽ hở về thời gian cho một số các doanh nghiệp nhảy vào đầu cơ đất
đai.
Chính vì vậy, một số văn bản pháp quy không những kém hiệu lực mà còn
gây nên những tác động không tốt đến thị trường đất đai nói riêng, nền kinh tế nói
chung. Trong đó đáng chú ý nhất là nghị định 18 /1994, ban hành ngày 13/2/1994,
quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất. Sau một năm thực hiện nghị định này đã phải thay thế bằng
nghị định mới nghị định 18/1995, ban hành ngày 13/2/1995. Với mục tiêu ngắn
hạn, trong thời điểm thị trường đất đai bị đầu cơ một cách tràn lan, thì việc ra đời
của hai Nghị định 18 Chính phủ đã có tác động mạnh tới hạn chế đầu cơ nhà đất.
Tuy nhiên, xét trong dài hạn, với mục tiêu phát triển thị trường đất đai, thì nghị
định 18/1994 (ngay cả khi được sửa đổi thành nghị định 18/1995), đã để lại một
hậu quả lớn, là một hố sâu trên con đường hình thành và phát triển thị trường đất
đai. Với những quy định của nghị định này, các doanh nghiệp trong đó có doanh
nghiệp kinh doanh địa ốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng về nguồn vốn (5/7 công ty
kinh doanh địa ốc trên địa bàn thành phố Vũng tàu đã phá sản hoặc lâm vào tình
trạng phá sản). Do điều 7 của nghị định 18/1995 đưa ra nguyên tắc: khi tính giá trị
thế chấp của các doanh nghiệp phải theo quyết định của ngân hàng nhưng không
vượt quá giá trị tài sản hiện có trên đất. Cho nên, các doanh nghiệp không thế
chấp được giá trị đất đai mà họ đã phải bỏ tiền ra mua trước đó, tam giác nợ được
hình thành, thị trường bị ngừng trệ. Thêm vào đó là ảnh hưởng của khủng hoảng
tài chính tiền tệ trong khu vực năm 1997, nguồn vốn vào bị suy giảm, các dự án
hoặc rút lui hoặc không triển khai được, hàng loạt các doanh nghiệp rơi vào tình
trạng không có khả năng thanh toán và do đó thị trường đất đai bị đóng băng.
Từ 1998, sự phát triển của thị trường đất đai được đánh dấu bởi sự ra đời của
luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đất đai năm 1993. Có thể nhìn nhận việc
sửa đổi luật lần này như là một giải pháp tình thế, nhằm kích cầu cho thị trường đất
đai đang trong thời kỳ suy thoái, đóng băng. Luật đất đai 1993 có nhiều vấn đề bất
cập trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Trong bộ luật này quyền của các chủ
thể sử dụng đất còn bị hạn chế rất nhiều. Điều 74 đến điều 78 của luật đất đai 1993
quy định quyền chuyển quyền SDĐ chỉ gắn với 5 quyền (quyền sử dụng, chuyển
nhượng, thừa kế, thế chấp...), chưa tính đến các quyền khác như: Cho thuê lại, góp
vốn, bảo lãnh... mà các quyền năng này rất cần đối với các chủ thể sử dụng đất
trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Hơn thế nữa luật 1993 cũng chỉ quy
định QSD đất cho các hộ gia đình và cá nhân, chưa đề cập đến các chủ thể khác
như các tổ chức trong nước và các tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Ngay đối
với các tổ chức trong nước cũng có những bất bình đẳng trong việc có đất và sử
dụng đất. Người sử dụng đất vào mục đích chung, công cộng cũng có quyền giống
như đối với các tổ chức sử dụng đất để sản xuất kinh doanh. Quyền của các tổ
chức, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình sử dụng đất còn bị hạn
chế.
Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn này,
luật đất đai 1993 đã trở nên quá chật hẹp, thiếu thông thoáng, kìm hãm các hoạt
động giao dịch đất đai và có tác động không tốt đến sự phát triển kinh tế đất nước.
Nó cần phải được sửa đổi. Luật sửa đổi bổ xung một số điều luật đất đai năm 1998
là một bước hoàn thiện pháp luật đất đai, nhằm mở rộng quyền cho người sử dụng
đất, mở rộng đối tượng nhận QSD đất, từ đó khắc phục những cản trở, ách tắc
trong quản lý, và sử dụng đất, góp phần giải phóng năng lực sản xuất, tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, những đòi hỏi từ thực tiễn xung
quanh vấn đề đất đai lại tiếp tục xuất hiện cần phải được tháo gỡ: Luật cho phép
người sử dụng đất thêm nhiều quyền năng đối với đất đai mà họ có QSD. Điều đó
dẫn đến những chủ thể hiện đang sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận QSD đất
mong muốn nhanh chóng hợp thức hoá QSD đất của mình. Hoặc không đợi có giấy
họ vẫn đưa đất đai vào giao dịch chấp nhận tình trạng phi chính quy- ngoài vòng
pháp luật. Điều đó dẫn đến nhu cầu cần cấp giấy chứng nhận QSD đất càng trở nên
cấp bách. Và một lần nữa luật đất đai được xem xét sửa chữa và bổ xung cho phù
hợp với thực tiễn. Ngày 29 tháng 6 năm 2001 Quốc hội đã thông qua luật đất đai
sửa đổi. Sự kiện này gắn với chủ trương cải cách hành chính trong nền kinh tế, tạo
điều kiện thông thoáng cho các hoạt động của nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình tập trung quyền
hạn quá lớn vào Chính phủ trong việc cho thuê, giao đất cho các chủ thể trong xã
hội cũng như các hoạt động quản lý đất đai nói chung. Luật sửa đổi bổ sung một số
điều luật đất đai 2001, đã cụ thể hoá việc phân cấp thẩm quyền cho việc ra quyết
định giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận ( QSD đất ) cho chính quyền địa
phương, theo hướng nâng cao trách nhiệm của các phường xã, quận huyện; Quy
định cụ thể về việc xác định giá đất và bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi
đất; Đặc biệt trong lần sửa đổi này đã quy định rõ thẩm quyền cho thuê và quyền
hạn, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế thuê đất của
Việt Nam; cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài có
nhu cầu về nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam... được mua nhà gắn liền với
QSD đất.
Như vậy, trong thời gian ngắn, luật đất đai 1993 đã trải qua hai lần sửa đổi,
bổ sung đã phần nào phát huy tác dụng trong thực tiễn thúc đẩy kinh tế phát triển
góp phần đưa nước ta vào nhóm những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu
nông,thuỷ sản. Kinh tế nông nghiệp đã thoát khỏi tình trạng tự nhiên tự cung tự cấp
và chuyển sang sản xuất hàng hoá; bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn được cải thiện.
Diện tích đất có rừng che phủ từ chỗ bị suy giảm mạnh, gần đây đã được khôi phục
và tăng lên. Cơ cấu sử dụng đất được chuyển đổi cùng với quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế. Diện tích đất giành cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, kết
cấu hạ tầng, xây dựng đô thị tăng nhanh, đáp ứng phần lớn nhu cầu sử dụng đất của
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Người sử dụng đất đã
gắn bó hơn với đất, đất đai đã bắt đầu trở thành nguồn lực kinh tế để người sử dụng
đất thu hút một lượng vốn đáng kể vào đầu tư hạ tầng, chỉnh trang và phát triển đô
thị.
Tuy nhiên, trước những diễn biến của nền kinh tế, vận hành theo cơ chế thị
trường, trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hoá kinh tế diễn ra sôi động, tình hình
quản lý, sử dụng đất đai còn nhiều yếu kém. Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, tính khả thi thấp; việc quản lý,
sử dụng đất đai theo quy hoạch, kế hoạch chưa trở thành ý thức của các cơ quan và
người quản lý, sử dụng tuỳ tiện khá phổ biến. Cơ chế quản lý tài chính về đất đai
thiếu hiệu quả. Thị trường đất đai vẫn hoạt động tự phát, nhiều giao dịch về đất đai
không qua cơ quan Nhà nước. Tình trạng đầu cơ đất đai làm giá đất lên cao không
hợp lý, gây nhiều tiêu cực về kinh tế, xã hội, đặc biệt là gây tác động xấu đến môi
trường đầu tư và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nguồn thu ngân sách từ đất đai
còn nhỏ bé và thất thoát lớn, cơ chế huy động nặng về hành chính, xin cho, thiếu
cơ chế điều tiết bằng chính sách kinh tế. Bên cạnh đó cơ quan quản lý đất đai các
cấp nhìn chung còn yếu kém, nhất là ở cấp huyện; cán bộ địa chính ở cơ sở năng
lực yếu, lại thường xuyên thay đổi công tác. Hệ thống đăng ký đất đai còn mang
tính thủ công, thiếu đồng bộ, chưa phát huy được vai trò là công cụ quản lý Nhà
nước về đất đai. Tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về việc quản lý và sử
dụng đất đai có xu hướng tăng. Lực lượng thanh tra đất đai vừa mỏng, vừa yếu lại
phải tập trung giải quyết những khiếu kiện, tố cáo … nên chưa thanh tra sử lý kịp
thời các vi phạm pháp luật về đất đai…
Để đi thống nhất, kiện toàn luật đất đai cho phù hợp với tình hình mới, khắc
phục những bất cập trong hệ thống đất đai hiện hành, đáp ứng nhu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tại
kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XI, đã thông qua luật đất đai 2003. Bộ luật này có
hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/7/2004. Tuy nhiên cho đến nay các văn bản, thông tư
hướng dẫn thi hành bộ luật này vẫn chưa được cụ thể hoá. Đây là một nguy cơ lớn
dẫn đến những bất cập mà chúng ta đã từng vấp phải trong thập kỷ 90.
Để có được những bước đi đúng đắn, phát huy vai trò của Nhà nước đối với
sự hình thành và phát triển thị trường đất đai ở nước ta hiện nay, đòi hỏi chúng ta
cần phải khảo sát kỹ thực trạng hiện nay của thị trường này, từ đó có những giải
pháp cho thích hợp nhằm ổn định và thúc đẩy thị trường đất đai chính quy phát
triển, giảm thiểu tình trạng giao dịch ngầm như hiện nay.
2.2 Thực trạng Thị trường đất đai ở Việt nam.
2.2.1 Thực trạng của thị trường sơ cấp.
2.2.1.1. Khái quát chung về thị trường sơ cấp.
Theo các qui định pháp luật thì các giao dịch dân sự về đất đai thông qua
thực hiện QSD đất chủ yếu diễn ra ở thị trường thứ cấp. Tuy nhiên, trong điều kiện
đất đai thuộc sở hữu toàn dân thì trước khi có thị trường thứ cấp, quyền sở hữu
toàn dân về đất đai phải được chuyển giao (dù là ở mức hạn chế) cho các chủ thể
có nhu cầu sử dụng đất trong xã hội. Thực chất đây là hợp pháp hoá QSD đất cho
họ thông qua việc cấp Giấy chứng nhận QSD đất. Nói cách khác là nhằm xác lập
những quyền năng cho các chủ thể đích thực của đất đai. Quá trình này được thực
hiện thông qua hình thức giao đất có thu tiền, giao đất không thu tiền và cho thuê
đất, theo quy định của luật đất đai 2003, tại các điều 31, 32, 33, 34 và 35 và quy
định về thu hồi đất tại mục 4 từ các điều 38 đến điều 45. Thị trường sơ cấp bao
gồm các giao dịch giữa một bên là Nhà nước, với tư cách là đại diện chủ sở hữu
toàn dân về đất đai, và bên kia là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử
dụng đất trong xã hội (mô hình1).Vai trò của các bên theo luật định bao gồm:
Về phía Nhà nước: Nhà nước thực hiện chức năng giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất và chấm dứt QSD đất của các chủ sử dụng đất; xác lập quyền sử dụng
đất và quyền thuê đất cho các chủ sử dụng đất bằng việc cấp GCNQSD đất. Pháp
luật qui định cấp có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, đối tượng được giao đất,
thủ tục, trình tự và hình thức giao đất đối với từng loại đất. Đồng thời quy định
mục đích sử dụng đất theo kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai trong nền kinh tế
đáp ứng mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra trong mỗi thời kỳ nhất định.
Mô hình 1 - Thị trường đất đai sơ cấp
+ Quỹ đất đai
+ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
+ Quy hoach sử dụng đất giai đoạn 2001 -2020
Nhà nước
Giao đất không
thu tiền
Giao đất
Cho
có thu
thuê
tiền
đất
Các chủ sử dụng đất (nhận đất từ nhà nước)
+ Tăng trưởng dân số, tăng trưởng kinh tế.
+ Phân công lao động xã hội; Quá trình chuyển dịch
cơ cấu của nền kinh tế;
Thu hồi đất