Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 107 trang )
dụng đất trong xã hội (mô hình1).Vai trò của các bên theo luật định bao gồm:
Về phía Nhà nước: Nhà nước thực hiện chức năng giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất và chấm dứt QSD đất của các chủ sử dụng đất; xác lập quyền sử dụng
đất và quyền thuê đất cho các chủ sử dụng đất bằng việc cấp GCNQSD đất. Pháp
luật qui định cấp có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, đối tượng được giao đất,
thủ tục, trình tự và hình thức giao đất đối với từng loại đất. Đồng thời quy định
mục đích sử dụng đất theo kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai trong nền kinh tế
đáp ứng mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra trong mỗi thời kỳ nhất định.
Mô hình 1 - Thị trường đất đai sơ cấp
+ Quỹ đất đai
+ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
+ Quy hoach sử dụng đất giai đoạn 2001 -2020
Nhà nước
Giao đất không
thu tiền
Giao đất
Cho
có thu
thuê
tiền
đất
Các chủ sử dụng đất (nhận đất từ nhà nước)
+ Tăng trưởng dân số, tăng trưởng kinh tế.
+ Phân công lao động xã hội; Quá trình chuyển dịch
cơ cấu của nền kinh tế;
Thu hồi đất
+Thu nhập và mức sống của người dân.
Về phía chủ thể sử dụng đất: Người sử dụng đất tham gia thị trường này
gồm: Các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có nhu cầu sử dụng đất. Để được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, người sử dụng đất phải tuân thủ
các thủ tục theo luật định bao gồm: Đáp ứng các qui định về hồ sơ xin giao (thuê)
đất; thực hiện các thủ tục để xin cấp GCNQSD đất, trong đó có việc thực hiện các
nghĩa vụ tài chính như nộp thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, thuế chuyển quyền
sử dụng đất, lệ phí địa chính theo qui định của pháp luật.
Việc giao đất, cho thuê đất được thực hiện gắn với mục đích sử dụng đất
(thể hiện trong qui hoạch và mục tiêu của từng dự án) và qui trình, thủ tục giao đất,
cho thuê đất có phân biệt tuỳ thuộc vào chủ sử dụng đất, tính chất của từng dự án.
Đối với những dự án không mang tính chất kinh doanh.
Để có cái nhìn tổng thể về sự vận động của thị trường đất đai sơ cấp trong
hiện tại và xu thế của nó trong giai đoạn tới, chúng ta phải nhìn tổng thể về quỹ đất
và cơ cấu sử dụng đất hiện nay trong nền kinh tế, gắn với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian tới. Tổng quĩ đất, phân theo các loại đất
hiện nay theo số liệu qui hoạch sử dụng đất đến 2010 được thể hiện trong (bảng 1).
Theo qui hoạch sử dụng đất, đến năm 2010, nhiệm vụ đặt ra là trong tổng
diện tích đất tự nhiên của cả nước cần phải: Giảm tỷ lệ đất chưa sử dụng từ 30%
hiện nay xuống còn 16,5%; Giảm tỷ lệ đất nông nghiệp từ 28,6% hiện nay xuống
26,6%, tăng tỷ lệ đất lâm nghiệp từ 35% lên 49,1%, tỷ lệ đất chuyên dùng tăng từ
4% lên 4,8%, Tăng hơn gấp đôi tỷ lệ đất khu dân cư nông thôn từ 1% lên 2,4%, và
tỷ lệ đất đô thị tăng gấp ba lần, từ 0,2% lên 0,6%. Như vậy, từ nay đến năm 2010,
nhu cầu về đất đai và chuyển dịch đất đai cho phát triển kinh tế là rất lớn.
Bảng 1. Tổng quĩ đất, phân theo các loại đất qui hoạch sử dụng đất đến 2010
[45, tr.10]
Đơn vị: 1000 ha,%.
Tổng kiểm kê
1995
2010
2000
DT
%
DT
%
DT
%
Tổng diện tích*
33.104
100.0 32.924
100.
33.104
100.0
1. Đất nông nghiệp
7.993,7
24
9.345,3
28
8.821,5
26,6
2. Đất lâm nghiệp
10.795,0
32
11.580,8
35
16.245,8
49.1
3. Đất chuyên dùng
1.271,0
3
1.532,8
4
1.583,2
4,8
4. Đất ở nông thôn
382,9
1
371,0
1
792,5
2,4
5. Đất ở đô thị
57,5
0.1
72,1
0.2
200,7
0,6
38
10.021,9
30
5.460,5
16,5
6. Đất chưa sử dụng 12.604,1
* Tổng diện tích theo số liệu tổng kiểm kê năm 2000 khác với số liệu qui hoạch bởi kỹ
thuật đo đạc.
Nhìn một cách tổng thể chúng ta thấy một số vấn đề nổi cộm sau đây: Trước
nhu cầu chuyển dịch cơ cấu đất đai cho phát triển kinh tế, việc đưa đất chưa sử
dụng vào sử dụng là rất cần thiết, đem lại lợi ích rất lớn, nhưng đất chưa sử dụng
lại chủ yếu là đất đồi núi (70%), việc khai thác sử dụng loại đất này rất khó khăn
và tốn kém, do đó cần phải huy động nhân lực, vật lực rất lớn; Trong tổng số quĩ
đất đang sử dụng thì đất công không còn nhiều, phần lớn đất đã có chủ sử dụng
dưới các hình thức khác nhau, nhất là đất trên địa bàn các tỉnh đồng bằng, trung du,
thành phố, thị xã. Vì vậy, muốn có đất để giao hoặc cho thuê Nhà nước phải thu
hồi đất, thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất, do đó bài toán thu hồi, giải phóng
mặt bằng và giao, cho thuê đất trong thời gian tới vẫn là một thách thức lớn mà
Nhà nước phải có hướng giải quyết cho phù hợp với thực tiễn.
Do lịch sử để lại, phần lớn chủ sử dụng đất không có đủ giấy tờ có tính pháp
lý để hợp pháp hoá QSD đất đang sử dụng. Nhu cầu hợp pháp hoá chủ quyền về
đất, thông qua việc cấp giấy chứng nhận QSD đất rất lớn. Công tác này nếu không
nhanh chóng hoàn thành, sẽ phát sinh nhiều vấn đề trong hiện trạng sử dụng đất,
gây khó khăn ngày càng nhiều cho Nhà nước. Cho đến nay, hiện trạng sử dụng đất
đai trong thực tiễn rất phức tạp, công tác quản lý Nhà nước còn rất lỏng lẻo, thiếu
cơ sở, căn cứ, (hồ sơ địa bạ còn thiếu, bản đồ hành chính chất lượng thấp, lạc hậu
với thực tế của hiện trạng...). Trước nhu cầu về đất đai cho phát triển kinh tế - xã
hội ngày một lớn, những biến động trong thực trạng sử dụng đất đai hàng ngày
hàng giờ diễn ra, tốc độ ngày càng nhanh. Vì vậy, nếu Nhà nước không nhanh
chóng hoàn thành việc đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận QSD đất cho các chủ
thể hiện đang sử dụng đất, từ đó có được một hệ thống thông tin về đất và có khả
năng theo dõi, cập nhật những thông tin, những biến động về đất đai, thì Nhà nước
sẽ gặp những khó khăn ngày càng chồng chất trong việc quản lý đất đai.
2.2.1.2. Thực trạng giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
Hiện nay Nhà nước chủ yếu giao đất để đáp ứng các nhu cầu về đất thông
qua các dự án cụ thể trên cơ sở qui hoạch sử dụng đất. Luật pháp qui định các cơ
quan có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất theo loại đất hàng hoá và hạn mức từng
loại đất hàng hoá. Nhìn chung yêu cầu đối với đất là đất có qui mô cụ thể, có hạ
tầng phù hợp; Nhà nước chịu trách nhiệm về hạ tầng ngoài phạm vi vùng dự án,
còn các tổ chức phát triển quĩ đất chịu trách nhiệm về hạ tầng bên trong phạm vi
dự án theo qui hoạch chi tiết được duyệt.
Các khoản thu ngân sách từ đất đai qua các năm.
Đơn vị: 1000 tỷ đồng.
-92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
2000
21,0
30,5
42,1
53,4
62,4
65,4
73,0
78,5
89,5
nghiệp
1,29
1,35
1,10
1,55
1,90
1,70
1,96
1,97
1,78
- Thuế nhà đất
-
0,18
0,22
0,31
0,38
0,33
0,31
0,34
0,37
0,20
0,35
0,46
0,54
0,58
0,52
SHNN
0,89
1,17
0,80
0,82
0,78
0,84
- Thu tiền cấp QSD đất
0,29
0,32
0,97
0,80
0,91
1,00
-
0,32
0,33
0,35
0,35
0,21
NSNN
-Thuế SD đất nông
- Cho thuê đất
- Tiền bán nhà thuộc
-Thuế chuyển QSD đất
0,70
Nguồn: Vụ NSNN-Bộ Tài chính
Thực tế những năm qua cho thấy, thông qua việc giao đất, cho thuê đất Nhà
nước đã đáp ứng được một phần nhu cầu về đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế
và cải thiện điều kiện sinh hoạt. Đã tạo được những điều kiện bước đầu để quản lý
đất và các nguồn thu ngân sách từ đất đai. Tuy nhiên trên thực tế, công tác giao
đất, cho thuê đất còn có những mặt hạn chế sau đây:
+ Việc đáp ứng các loại nhu cầu về đất còn mất cân đối. Trong khi các dự án
giao đất và cho thuê đất có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp Nhà nước
được đáp ứng ưu tiên thông qua việc hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất
và cho phép các doanh nghiệp dùng quĩ đất để góp vốn liên doanh với nước ngoài
thì việc đáp ứng nhu cầu đất cho các dự án xây dựng nhà ở và nhà xưởng kinh
doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
còn nhiều hạn chế (các đối tượng này chủ yếu dựa vào thị trường phi chính qui).
+ Những loại đất nơi cung vượt cầu thường được tạo lập bởi các nguồn kinh
phí từ ngân sách hoặc có nguồn gốc ngân sách. Đây là hiện tượng lãng phí và sử
dụng vốn kém hiệu quả. Vốn tư nhân (hộ gia đình và doanh nghiệp) không huy
động được thông qua con đường chính qui vì số dự án đáp ứng nhu cầu cho các đối
tượng này quá ít.
+ Tiến độ giao đất rất chậm, thời gian hoàn tất các loại thủ tục bị kéo dài so
với Luật định bởi nhiều lý do. Phần lớn là do việc giao đất, cho thuê đất mang nặng
tính chất bao cấp, mức độ hành chính hoá cao, cơ chế hình thành giá cả mang nặng
tính chất hành chính, thiếu khách quan, trong khi đó các cơ quan công quyền vừa
yếu về chuyên môn lại vừa kém về năng lực phẩm chất lãnh đạo, do đó phát sinh
nhiều tiêu cực, gây nhiều cản trở, ắch tắc trong công tác này. Những vụ việc cứ
ngày ngày diễn ra được đăng tải trên các mặt báo hàng ngày. Ví như, câu chuyện
về "Ông chúa đảo" trong phóng sự của Lê Trọng Hùng về "Cơn địa chấn Tuần
châu - Quảng ninh", trên tr 7 - Báo pháp luật ra ngày 1/4/2004... Hoặc vụ "Xẻ đôi
nhà dân làm lối đi cho chánh văn phòng MTTQ tỉnh" trên báo pháp luật - đời sống
Tr11. Thứ 6 ngày 23/ 4/ 2004, là những bằng chứng chứng minh cho điều đó.
+ Hiện tượng giao đất trái thẩm quyền, lấn chiếm đất công, sử dụng đất sai
mục đích, tư lợi vẫn phổ biến, nhưng Nhà nước chưa có biện pháp và công cụ phù
hợp để ngăn chặn; thất thu ngân sách còn lớn. "Tổng hợp tình hình từ thanh tra Bộ
Tài nguyên - Môi trường cho thấy việc vi phạm chủ yếu là giao đất quá diện tích
và ngoài phạm vi đã duyệt để thu tiền, chuyển mục đích sử dụng đối với đất được
giao trái phép (giao để kinh doanh, sau biến thành nhà ở, giao đất vi phạm hành
lang bảo vệ giao thông, đê điều, lợi dụng thanh lý nhà để bán đất, đấu thầu cho
thuê đất sản xuất rồi tự chuyển mục đích thành đất ở... Gần 200.000 hộ được giao
đất trái thẩm quyền bị phát hiện thực chất là mua đất với tổng diện tích trên 8000
ha, thu trên 66,5 tỷ đồng" [ 43,tr. 9 ].
+ Việc xây dựng các công trình hạ tầng ngoài phạm vi các dự án bằng
kinh phí của Nhà nước thực hiện chậm nên ảnh hưởng đến giá bán của chủ
đầu tư cho người sử dụng. Hơn nữa, khi Nhà nước có vốn để hoàn tất các
công trình ngoài hàng rào thì giá đất đã chuyển nhượng cho chủ sử dụng
tăng rất nhanh, phát sinh sự bất công trong vấn đề thụ hưởng: người được lợi
thì Nhà nước không điều tiết được, người bị Nhà nước thu hồi đất trước đó
cho dự án cảm thấy mình bị thiệt thòi trong bồi thường. Hiện nay, hầu hết
đất đai đã có chủ sử dụng. Để có đất giao và cho thuê, Nhà nước phải thu hồi
đất, bồi thường cho các chủ sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất. Vì
vậy, việc bồi thường có liên quan hầu như đối với tất cả các dự án mà Nhà
nước giao đất và cho thuê đất. Tuy nhiên, do nhiều qui định không phù hợp
với thực tế và có quá nhiều văn bản hướng dẫn thiếu nhất quán với nhau nên
các cơ quan thực hiện đã phải vận dụng những hình thức, thủ tục khác nhau,
nhất là về giá bồi thường và mục đích sử dụng đất bồi thường. Trên thực tế,
cùng một loại đất đã có những mức bồi thường khác nhau nhiều lần, dẫn đến
tình trạng tiêu cực, khiếu tố, kiện cáo kéo dài, đặc biệt là đối với các dự án
phúc lợi công cộng. Hiện nay, bồi thường để giải phóng mặt bằng đang là
khâu ách tắc nhất trong qui trình hình thành và thực hiện các dự án. Việc bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất hiện nay được thực hiện theo NĐ
22/1998/NĐ-chính phủ thay cho Nghị định 90/1994/NĐ-CP. Tuy đã được
hoàn thiện về nhiều mặt, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện như:
chưa có qui định cụ thể về mức đất đã sử dụng trước 1993; Các điều kiện để
được bồi thường qui định tại Điều 6 và Điều 7 của Nghị định này còn thiếu
rõ ràng dẫn đến cách hiểu và thực hiện không thống nhất; vấn đề giá tính bồi
thường thiệt hại chưa thống nhất (hệ số K); chính sách tái định cư còn thiếu
những qui định chi tiết. Gần đây, Nhà nước đã có những văn bản mới nhằm
giảm thiểu thủ tục và đẩy nhanh quá trình thu hồi đất: Điều 46 của Luật đầu
tư nước ngoài sửa đổi qui định việc giải phóng mặt bằng đối với những dự
án có vốn đầu tư nước ngoài sẽ do phía Việt Nam liên doanh hoặc chí nh
quyền địa phương cấp tỉnh (thành phố) nơi có dự án đảm nhận. Đây có thể
coi là bước tiến mới trong quá trình giảm thiểu các thủ tục đầu tư đối với các
dự án đầu tư nước ngoài.
Việc thực hiện Luật đất đai về thu hồi đất đã không được triển khai có hiệu
quả. Hiện tượng các dự án thiếu tính khả thi, trong thời gian nằm đợi vốn đã tìm
cách sang nhượng hợp đồng thuê đất để kiếm lời và hiện tượng sử dụng đất không
đúng mục đích còn xảy ra khá phổ biến. Nhà nước không thu hồi được đất. Các dự
án treo còn quá nhiều, gần đây Hà Nội và TPHCM đã có những bước đi kiên quyết
trong việc xoá các dự án treo nhưng cũng chưa thể giải quyết triệt để.
2.2.1.3. Xác lập quyền sử dụng đất.
Trên giác độ của thị trường đất đai thì thị trường sơ cấp chính là nơi cung
ứng hàng hoá cho thị trường thứ cấp, và kết cục ở đây là các chủ sử dụng đất có
được các quyền gì đối với đất đai mình có được mà thôi. Nguyên tắc ở đây là các
quyền càng nhiều, công năng của đất càng được phát huy thì giá trị của đất càng
cao. Vậy, chúng ta cần khảo sát kỹ về thực trạng của việc xác lập các quyền năng
cho người sử dụng đất, trong nền kinh tế hiện nay. Việc xác lập QSD đất, theo qui
định của pháp luật có hai dạng: Xác lập quyền mới khi giao đất và hợp pháp hoá
quyền cho các chủ đã và đang sử dụng đất thông qua việc cấp Giấy chứng nhận
QSD đất.
Đối với hình thức xác lập quyền mới thông qua giao đất, cho thuê đất. Để
được giao đất thực hiện dự án, các chủ dự án có nhu cầu sử dụng đất phải lập hồ sơ
xin giao đất hoặc thuê đất theo qui định của pháp luật và trình dự án lên cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt theo đúng trình tự và thủ tục được qui định (theo qui định
trong NĐ 52/1999/NĐ-CP, các cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ xem xét và giải
quyết trong vòng 25 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ). Tuy nhiên, ngoài vấn đề
đất đai để dự án được thông qua, các chủ đầu tư còn phải hoàn tất các thủ tục khác
theo qui định của Nhà nước. Thông thường quá trình từ khi khởi đầu đến khi kết
thúc một dự án thường kéo dài một vài năm. Trên thực tế các dự án lớn nằm trong
kế hoạch được ưu tiên hơn về mặt thủ tục, đặc biệt là những dự án có vốn đầu tư
nước ngoài; các dự án nhỏ ít được quan tâm hơn. Điều có liên quan đến thị trường
đất đai là sau khi hoàn thành dự án, các chủ đầu tư thực hiện việc chuyển nhượng,
cho thuê và cho thuê lại thì làm thế nào để người sử dụng mới, có được giấy xác
nhận quyền sử dụng một cách nhanh nhất?
THỦ TỤC THUÊ ĐẤT Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Doanh nghiệp “xin” thuê đất để sản xuất cũng phải theo một qui trình 25
bước, qua 11 cơ quan Thành phố, Quận, Phường, xã. Công ty TNHH Đông
Phương thuê 5 ha đất ở Quận 2 phải xin 80 chữ ký, 23 đơn, 46 văn bản trình
bày, chạy tới 6 năm mà mới đi được 8 bước.
Nguồn: Báo Nhân dân 16/6/2000.
Thông thường nếu dự án thực hiện thuận lợi theo tiến độ, chủ dự án thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
không mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều sự cố có thể xẩy ra
với những lý do khách quan và chủ quan dẫn đến việc hoàn thành dự án bị kéo dài.
Trong những trường hợp này (thường là phổ biến), việc hợp pháp hoá quyền cho
các chủ sử dụng mới bị ách tắc. Trên thực tế đã xảy ra không ít trường hợp, người
sử dụng đất không quan tâm hoặc tạm chưa quan tâm đến việc hợp pháp hoá QSD
(đặc biệt đối với những chủ đầu cơ, đăng ký mua để bán lại), nên các chủ dự án
không thực hiện được các thủ tục sang tên.
Tóm lại, hiện nay qui trình xác lập QSD đất chưa được qui định chặt chẽ và
chưa có tính cưỡng chế pháp lý để mọi người phải tuân thủ.
Đối với việc hợp pháp hoá quyền cho các chủ đã và đang sử dụng đất. Như
trên đã trình bày, tuy đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng trên thực tế hầu như quĩ
đất đã có chủ sử dụng. Vấn đề đặt ra là nếu việc sử dụng đó hợp pháp thì việc cấp
giấy chứng nhận QSD đất cho các chủ sử dụng là cần thiết và được coi như một
yếu tố tiên quyết để các chủ sử dụng đất tham gia giao dịch trên thị trường.Theo
phương hướng và nhiệm vụ đề ra đối với Tổng cục địa chính (Chỉ thị 18/1999/CTTTg ngày 1-7-1999 về một số biện pháp đẩy nhanh và hoàn thành việc cấp giấy
chứng nhận QSD đất) thì: Đối với đất nông nghiệp: Cơ bản cấp xong giấy chứng
nhận QSD đất nông nghiệp vào năm 1999; Đối với đất lâm nghiệp, đất khu dân cư
nông thôn: Cơ bản cấp xong giấy chứng nhận QSD đất vào năm 2000; Đối với đất
đô thị: Cơ bản cấp xong giấy chứng nhận QSD đất đô thị vào năm 2001. Tuy nhiên
sau 6 năm thực hiện Nghị định 60/CP của Chính phủ về quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất ở. Thực tế cho thấy, nghị định này chưa thực sự đi vào cuộc
sống. Người dân mặc dù đang thực sự chiếm hữu, sử dụng đất đai nhưng họ rất khó
hợp pháp hoá được quyền đó. Tiến độ cấp giấy chứng nhận QSD đất chậm hơn
nhiều so với dự kiến, vì thế Tổng cục địa chính - nay là Bộ tài nguyên môi trường
đã điều chỉnh đến 2003, nhưng rồi cũng không thực hiện được. Hiện nay đang
phấn đấu quyết tâm hoàn thành vào năm 2005.
Theo Tổng cục Địa Chính, trong năm 2000: Mới chỉ có 16% số hộ đô thị nhận
được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
- 10,4 triệu hộ nông dân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
đạt gần 90% về hộ, 84% về diện tích đất nông nghiệp; 195 nghìn hộ trong tổng số
447 nghìn hộ đã được giao đất lâm nghiệp với diện tích 910 nghìn ha; 641 nghìn
hộ trong tổng số 4.547 nghìn hộ sử dụng đất ở đô thị đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đạt 16% tổng số.
Nguồn: Báo Đầu tư, ngày 6/1/2001