Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 113 trang )
Sơ đồ 1.1 Các loại hình vốn đầu tƣ quốc tế
Vốn đầu tư quốc tế
Trợ giúp phát triển chính
Đầu tư của tư nhân
thức của CP và các tổ chức quốc tế
Đầu tư
Đầu tư
Tín dụng
Hỗ trợ
Hỗ trợ
Tín dụng
trực tiếp
gián tiếp
thương
dự án
phi dự
thương
án
mại
mại
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của các cá
nhân hoặc các công ty nước này vào nước khác bằng cách thức lập các cơ sở
sản xuất, kinh doanh. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư mà các
nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý điều hành,
tổ chức sản xuất để thu lại lợi ích và hoàn toàn chịu trách nhiệm về đồng vốn
cũng như kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
So với đầu tư gián tiếp, hình thức FDI tạo cho nước chủ nhà có nhiều khả
năng tiếp thu được công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của chủ đầu tư
nước ngoài. Mặt khác, các chủ đầu tư nước ngoài (ở một mức độ nhất định)
có thể tham gia điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ bỏ ra.
Ngoài ra hình thức FDI còn tránh được nguy cơ trục lợi về chính trị, bị trói
buộc vào vòng ảnh hưởng của các nước cho vay khi huy động vốn bằng hình
thức tiếp nhận đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên, FDI sẽ không mang lại hiệu quả
cao nếu nước chủ nhà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể khiến đầu tư tràn
7
lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt và “vô tình” trở thành “bãi
thải” công nghệ lạc hậu, độc hại do các nước đầu tư chuyển sang.
Chính vì những ưu và nhược điểm đã phân tích trên đây mà đa số các
nước đang phát triển coi FDI là “chìa khoá” để mở cánh cửa phát triển kinh
tế. Đặc biệt trong giai đoạn đầu khi các hình thức hút vốn đầu tư gián tiếp qua
thị trường chứng khoán chưa ra đời thì FDI càng có ý nghĩa quan trọng
* Các hình thức FDI
Hiện nay ở Việt Nam có các hình thức FDI chủ yếu sau:
1. Doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài: doanh nghiệp này
do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều
hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại.
2. Xí nghiệp/công ty liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài. Tại Việt Nam theo quy định của pháp luật đối với những
cơ sở kinh tế quan trọng do Chính phủ quyết định, doanh nghiệp Việt Nam
trên cơ sở thoả thuận với chủ doanh nghiệp nước ngoài để chuyển thành
doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được
thành lập do chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp Việt
Nam (với mức vốn tối thiểu là 30% vốn) trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các
bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo
tỉ lệ đóng góp của mỗi bên vào vốn pháp định.
3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO,
hợp đồng BT.
Nhà đầu tư được ký kết hợp đồng BCC để hợp tác sản xuất phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác. Đối
tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm của mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các
bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng. Hợp đồng BCC trong lĩnh vực tìm
8
kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và một số tài nguyên khác dưới hình thức
hợp đồng phân chia sản phẩm được thực hiện theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Nhà đầu tư ký kết hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các dự án xây dựng mới, mở
rộng, hiện đại hóa và vận hành các dự án kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao
thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải và các lĩnh
vực khác do Thủ tướng Chính phủ quy định.
4. Đầu tư phát triển kinh doanh.
Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức
sau đây:
Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh;
Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi
trường.
5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của FDI
1.1.2.1 Đặc điểm của FDI
- Thứ nhất, các chủ đầu tư phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn
pháp định theo quy định của luật đầu tư của từng quốc gia. Ví dụ, Điều 16
Luật đầu tư Việt Nam 2005 quy định: Vốn pháp định của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Trong trường hợp đặc biệt, tỷ lệ này có thể thấp hơn 30%, nhưng phải được
cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp thuận.
- Thứ hai, chủ đầu tư có quyền trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh
của xí nghiệp; quyền này phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu tư đó.
9
Ví dụ: nếu chủ đầu tư nước ngoài đóng góp 100% vốn thì họ có toàn quyền
quản lý, kinh doanh.
- Thứ ba, lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc
kết quả hoạt động sản xuất kinh doành và tỉ lệ góp vốn.
So với các hình thức đầu tư khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những
thế mạnh và đặc trưng riêng có:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy vẫn chịu sự chi phối của chính phủ của
nước nhận đầu tư nhưng lệ thuộc ít hơn vào mối quan hệ chính trị giữa hai
bên hơn so với hình thức tín dụng quốc tế.
- Bên nước ngoài trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh của xí nghiệp
nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra những quyết định có lợi
nhất cho việc đầu tư.
- Do quyền lợi của nhà đầu tư gắn chặt với dự án cho nên họ có thể lựa
chọn kỹ thuật công nghệ thích hợp, luôn tích cực nâng cao trình độ quản lý,
tay nghề công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng
có những hạn chế nhất định. Trước hết, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn
luôn muốn giành được lợi nhuận cao nhất, họ sành sỏi trong kinh doanh nên
nếu luật ở nước nhận đầu tư chưa chặt chẽ thì có thể gây ra một số tác động
tiêu cực về môi trường, kinh tế - xã hội. Bài học nhãn tiền ở Việt Nam là
trường hợp Vedan đã xả thải trái phép gây ô nhiễm môi trường sông Thị Vải
– Đồng Nai và toàn hệ thống sông Đồng Nai nói chung, gây ra hậu quả nặng
nề đối với môi trường và cộng đồng dân cư. Đồng thời, do không thể chủ
động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành, theo lãnh thổ nên các nước
nhận đầu tư khó có thể chủ động trong việc này. Đây là một nguyên nhân dẫn
đến việc phát triển không cân đối giữa các ngành, nghề, các khu vực và địa
phương – là mầm mống cho những bất ổn về kinh tế, chính trị.
10
1.1.2.2 Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội
(1) - Là động lực tăng trưởng kinh tế: Mục tiêu cơ bản trong thu hút FDI
của một quốc gia hay một địa phương là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục
tiêu này được thực hiện thông qua tác động tích cực của FDI đến các yếu tố
quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng: bổ sung nguồn vốn trong nước và
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện
đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển
nguồn nhân lực và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị
trường thế giới; tạo liên kết giữa các ngành công nghiệp.
(2) - Vốn đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế: FDI là một trong những
nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận
đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang
phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn” đó là: Thu nhập thấp dẫn đến tiết
kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn
quẩn này chính là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua
để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào
tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm
đột phá chính xác một mắt xích của “vòng luẩn quẩn” này. Trở ngại lớn nhất
để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư kỹ
thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động… Từ đó tạo tiền đề tăng thu
nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, để tạo vốn cho nền
kinh tế nếu chỉ trông chờ vào tích lũy nội bộ thì không đáp ứng đủ mức cần
thiết, do đó vốn nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá cái vòng
luẩn quẩn đó. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng
thiếu vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn này có
lợi thế hơn đối với vốn vay ở chỗ: Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và
11
đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn của FDI thì thường
linh hoạt hơn.
Theo mô hình lý thuyết “ hai lỗ hổng” của Cherery và Strout, có hai cản
trở chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: (1) Tiết kiệm không đủ
đáp ứng cho nhu cầu đầu tư được gọi là: “ lỗ hổng tiết kiệm”. (2) Thu nhập
của hoạt động xuất khẩu không đủ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động
nhập khẩu được gọi là: “ lỗ hổng thương mại”. Hầu hết ở các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam hai lỗ hổng trên rất lớn (xem bảng 1.1), vì vậy FDI
còn là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà
cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì FDI góp phần nhằm tăng khả năng
cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một
phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt dộng dịch
vụ cho FDI.
Bảng 1.1 – Tỷ trọng các nguồn vốn đầu tƣ tại Việt Nam 2006 - 2009
Vốn ngoài quốc
Vốn đầu tư nước
doanh
ngoài
45,7
38,1
16,2
2007
37,2
38,5
24,3
2008
28,6
40,0
31,4
2009
34,6
39,5
25,7
Năm
Vốn nhà nước
2006
Nguồn: Tổng cục thống kê [27]
(3) - Chuyển giao và phát triển công nghệ: FDI được coi là nguồn quan
trọng để phát triển khả năng công nghệ của địa phương. Vai trò này được thể
hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài
vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng
trong nước. Đây là những mục tiêu quan trọng được các địa phương tiếp nhận
FDI mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài. Chuyển giao công nghệ thông
qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các TNCs, dưới các hình thức:
12
Chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một TNCs và chuyển giao
giữa các chi nhánh của các TNCs. Những năm gần đây, các hình thức này
thường đan xen nhau với các đặc điểm rất đa dạng. Phần lớn công nghệ được
chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình
thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nuớc
ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm
công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng,
công nghệ quản lý, công nghệ marketting. Nhìn chung, các TNCs rất hạn chế
chuyển giao những công nghệ mới có tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh
của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ do
việc bắt trước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của các công ty nước chủ nhà.
Mặt khác, do các nước,địa phương nhận FDI còn chưa đáp ứng được yêu cầu
sử dụng công nghệ của các TNCs.
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn
góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công
nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các hoạt động của các
chi nhánh TNCs ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều
kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các hoạt động cải tiến công nghệ của
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung
cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong
nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa
phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, các nhà
đầu tư và phát triển công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công
nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo…công nghệ nguồn, sau đó
cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng
thành công nghệ của mình. Nhờ có những tác động tích cực trên, khả năng
công nghệ của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất từ đó
thúc đẩy được tăng trưởng.
13
(4) - Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm: Nguồn nhân lực có ảnh
hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuát, các vấn đề xã hội và mức độ tiêu
dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào
các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng
quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất
lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra,
tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần
tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rất lớn
dến tốc độ tăng trưởng.
FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công việc làm thông qua việc
cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra
những cơ hội việc làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước
ngoài mua hàng hóa dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ
thông qua các hợp đồng gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy
FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao
động như ngành may mặc, điện tử, chế biến. Theo thống kê chính thức đến
năm 2008, số lao động trực tiếp làm trong các doanh nghiệp có vốn đàu tư
nước ngoài ở Việt Nam là 1,8 triệu người chiếm gần 4% tổng số lao động
đang làm việc trong nền kinh tế. Nếu tính cả đội ngũ lao động làm việc trong
các doanh nghiệp có liên quan đến các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thì lượng lao động này còn lớn hơn nhiều.
Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo dạy nghề,
FDI còn góp phần quan trọng đối vơí phát triển giáo dục của nước chủ nhà
trong các lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ
thông, cung cấp một số thiết bị giảng dạy cho các cơ sở giáo dục của nước
chủ nhà, tổ chức các chương trình phổ cập kiến thức có bản cho người lao
14
động bản địa làm việc trong dự án (trong đó có nhiều lao động được đi đào
tạo ở nước ngoài).
FDI nâng cao năng lực quản lý của nước chủ nhà theo nhiều hình thức
như các khoá học chính quy, không chính quy, và học thông qua làm việc.
Tóm lại, FDI đem lại lợi ích về tạo công ăn việc làm. Đây là một tác động
kép: tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao
động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp
của FDI đối với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào
chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
(5) - Thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới. Xuất
nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưỏng kinh tế. Mối quan hệ này
được thể hiện ở các khía cạnh” xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so
sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất; nhập
khẩu bổ sung các hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng;
xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông
tin dịch vụ, tăng cường kiến thức marketting cho các doanh nghiệp nội địa và
lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ trọng lớn trong xuất khẩu ở
hầu hết các quốc gia đặc biệt là ở các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam (xem bảng 1.2). Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận
với thị trường thế giới bởi vì, hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty
xuyên quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận
với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế và uy
tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng đúng hẹn.
15
Bảng 1.2 Vị trí của FDI trong xuất khẩu (%) [28]
Năm
Khu vực kinh tế
Khu vực có vốn đầu tư
Trong nước
Nước ngoài
2000
53
47
2005
42,8
57,2
2008
44,9
55,1
(6) - Liên kết các ngành công nghiệp: Liên kết giữa các ngành công
nghiệp được biểu hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị hàng hoá (tư liệu sản xuất,
nguyên vật liệu đầu vào), dịch vụ trao đổi trực tiếp từ các công ty nước ngoài
ở nước chủ nhà. Việc hình thành các liên kết này là cơ sở quan trọng để
chuỷen giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy xuất nhập khẩu
của nước chủ nhà. Cụ thể: Qua các hoạt động cung ứng nguyên vật liệu, dịch
vụ cho các công ty nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp nội
địa phát triển năng lực sản xuất của mình (mở rộng sản xuất, bắt chước quy
trình sản xuất và mẫu mã hàng hoá…). Sau một thời gian nhât định các doanh
nghiệp trong nước có thể tự xuất nhập khẩu được. FDI tác động mạnh đến
cạnh tranh và độc quyền thông qua việc thêm vào các đối thủ cạnh tranh hoặc
sử dụng sức mạnh của mình đẻ khống chế thị phần ở nước chủ nhà. Từ thúc
đẩy cạnh tranh, FDI góp phần làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn,
nhờ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhờ có FDI, cơ cấu nền kinh tế
của nước chủ nhà chuyển dịch nhanh chóng theo chiều hưóng tăng nhanh tỷ
trọng các ngành công nghiệp dịch vụ và giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp,
khai thác trong GDP.
(7) - Các tác động quan trọng khác
Ngoài những tác động kể trên, FDI còn tác động đáng kể đến các yếu tố
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như: chất lượng môi trường, cạnh tranh và
độc quyển, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hội nhập khu vực và quốc tế.
16
Mặc dù chất thải của các công ty nước ngoài, nhất là trong các ngành
khai thác và chế tạo, là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình
trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng ở các nước đang phát triển tuy nhiên có
nhiều nghiên cứu cho thấy các TNCs rất chú trọng và tích cực bảo vệ môi
trường hơn các công ty nội địa. Bởi vì, quy trình sản xuất của họ thường được
tiêu chuẩn hoá cao nên dễ đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của
nước chủ nhà. Hơn nữa, các TNCs thường có tiềm lực tài chính lớn do đó có
điều kiện thuận lợi trong xử lý các chất thải và tham gia góp quỹ, hỗ trợ tài
chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
FDI là một trong những hình thức quan trọng của các hoạt động kinh tế
đối ngoại và nó có liên quan chặt chẽ đến tất cả các hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hoá- xã hội của các quốc gia, do đó sự phát triển của lĩnh vực này thúc
đẩy sự hoà nhập khu vực và quốc tế của nước chủ nhà.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và thực tiễn cũng chỉ ra rằng không phải
bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu FDI cũng phát huy tác động tích cực đối với
đời sống kinh tế xã hội của địa phương tiếp nhận đầu tư. Nó chỉ có thể phát
huy những tác dụng tốt trong môi trường kinh tế, chính trị ổn định và đặc biệt
là nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Những hạn chế
các nhà nghiên cứu chỉ ra đó là:
- Những khiếm khuyết, bất cập trong tác động đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thể hiện:
+ Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông – lâm –
thủy sản hết sức ỏi về tỷ trọng trên tổng số dự án và vốn trên tổng vốn đăng
ký.
+ Trong những năm gần đây, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực
dịch vụ, bất động sản khá mạnh vào khu vực dịch vụ, bất động sản… Năm
2007, tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này chỉ chiếm
17