Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 113 trang )
- Hệ thống giao thông thuận
lợi ,
- Ổn định về sử dụng đất.
- Thiết chế pháp lý tốt.
Điểm yếu
- Số lượng trường dạy nghề
còn thiếu
- Lao động có tay nghề và có
chuyên môn kỹ thuật cao còn
thiếu.
- Thời gian giải quyết các thủ
tục hành chính còn chậm.
- Một số cán bộ chưa đáp ứng
được yêu cầu công việc quản
lý Nhà nước.
- Chính sách rõ ràng minh
bạch. Tăng cường quảng bá
hình ảnh Hải Dương.
Khắc phục yếu điểm:
- Tăng cường cơ sở vật chất
và con người cho các
trường dạy nghề, kết hợp
doanh nghiệp cùng nhà
trường đào tạo công nhân.
- Cải cách các thủ tục hành
chính, công khai quy trình
giải quyết.
Để khắc phục điểm yếu, khai thác lợi thế nắm bắt cơ hội và hạn chế những
tác động tiêu cực do môi trường đem lại cần có chiến lược dài hạn và các giải
pháp cụ thể để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dương giai
đoạn 2011-2020.
3.2.1 Nhóm giải pháp về công tác quy hoạch
* Các giải pháp điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến việc
thu hút đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Các cấp lãnh
đạo tỉnh cần đưa ra quy hoạch phát triển kinh kế - xã hội dài hạn và công khai
các quy hoạch này.
Hiện nay, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định sô 4940/2005/QĐ-UBND
về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương
giai đoạn 2006 – 2020. Quy hoạch này đã chỉ rõ các giai đoạn cụ thể phát triển
kinh tế - xã hội từ 2006 – 2020 qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ năm 2006 đến
năm 2010; Giai đoạn 2: Từ năm 2011 đến năm 2015; Giai đoạn 3: Từ năm 2016
đến năm 2020 [30]. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội đất nước và thế giới
trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến; tỉnh cần có sự rà soát, cụ thể
hóa những tiêu chí trong quy hoạch này để đảm bảo tranh thủ được thời cơ, vượt
qua những thách thức hiện tại.
* Hoạch định cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực cụ thể
phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
86
Xây dựng các tiêu chí cụ thể thu hút, lựa chọn, xét duyệt các dự án đầu tư
nước ngoài theo hướng tăng hàm lượng công nghệ và giảm lao động phổ thông.
Thông qua công tác quy hoạch đầu tư, xác định các dự án, lĩnh vực, địa phương
cần kêu gọi vốn đầu tư.
Trong thời gian vừa qua tỉnh Hải Dương đã quan tâm tới lựa chọn dự án
trong thu hút, xét duyệt các dự án đầu tư. Các dự án đầu tư sử dụng nhiều lao
động đã bị hạn chế và được chuyển tới những vùng xa hơn. Các dự án vốn lớn,
hàm lượng công nghệ cao được khuyến khích đầu tư vào các khu vực trung tâm.
Mặc dù vậy, việc thu hút, xét duyệt các dự án đầu tư cũng gặp không ít khó
khăn, do có sự khác biệt về lợi ích, về quan điểm trong thu hút các dự án đầu tư
nước ngoài giữa chính quyền và các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng. Theo
kinh nghiệm của một số địa phương và vùng lãnh thổ, chính quyền địa phương
thường xây dựng các chỉ tiêu cụ thể để làm cơ sở cho việc thu hút, lựa chọn và
xét duyệt các dự án đầu tư. Các chỉ tiêu này được xây dựng cho từng khu vực,
vùng, thậm chí từng KCN khác nhau.
Việc xây dựng các tiêu chí cụ thể làm cơ sở cho thu hút, lựa chọn và xét
duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là biện pháp mạnh
buộc các nhà đầu tư, các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng phải tuân thủ đáp ứng
mục tiêu phát triển chung của tỉnh. Việc xây dựng các tiêu chí xét duyệt các dự
án đầu tư nước ngoài có thể không được sự ủng hộ của một số công ty kinh
doanh cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, đây là biện pháp cần thiết để định hướng thu
hút, lựa chọn, xét duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời cũng là
biện pháp cần thiết để điều chỉnh cơ cấu các doanh nghiệp FDI đảm bảo sự phát
triển bền vững.
Một số tiêu chí xét duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể cân
nhắc đó là: vốn đầu tư/ chỗ làm việc (hoặc lao động), vốn đầu tư/ ha, tỷ lệ vốn
đầu tư công nghệ/ tổng vốn đầu tư.
* Các giải pháp quy hoạch xây dựng
87
Quy hoạch và phát triển các KCN chuyên môn hoá do UBND tỉnh trực tiếp
làm chủ đầu tư.
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, tác động tích cực tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn với công nghệ cao, phát
triển công nghiệp phụ trợ... việc quy hoạch và phát triển các KCN chuyên môn
hoá là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc xây dựng các KCN chuyên môn hoá sẽ
không được sự hưởng ứng tích cực của các nhà đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng.
Việc phát triển các khu công nghiệp theo hướng tổng hợp hay chuyên môn
hoá là vấn đề liên quan đến lợi ích chung của tỉnh cũng như lợi ích của các công
ty kinh doanh cơ sở hạ tầng (nhà đầu tư sơ cấp) trước mắt cũng như lâu dài.
Trước mắt có thể có những mâu thuẫn về lợi ích trong phát triển các khu công
nghiệp. Phát triển các khu công nghiệp tổng hợp có thể đảm bảo lợi ích cho các
công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng trước mắt, nhưng việc phát triển các khu công
nghiệp chuyên môn hoá sẽ đảm bảo lợi ích ổn định và bền vững lâu dài cho các
bên liên quan.
Phát triển các khu công nghiệp theo hướng chuyên môn hoá theo ngành
nghề, lĩnh vực hoá sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn đầu tư và chuẩn bị các nguồn
lực cho khu công nghiệp đồng thời thuận lợi cho thu hút các dự án đầu tư lớn
với công nghệ cao. Việc quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp theo
hướng chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút các dự án đầu tư
phát triển công nghiệp phụ trợ tạo thêm giá trị gia tăng.
3.2.2 Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách và cơ chế đầu tư
Cải cách, đơn giản và hiện đại hóa thủ tục hành chính đặc biệt là thủ tục
hành chính liên quan đến đầu tư nước ngoài là giải pháp quan trọng nhất để cải
thiện những hạn chế về luật pháp, chính sách và cơ chế đầu tư. Để làm được
điều này tỉnh cần:
- Thực hiện cải Cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" trên một
số lĩnh vực, Sở Kế hoạch đầu tư công khai hoá thủ tục và rút ngắn thời gian tiếp
nhận và hoàn trả hồ sơ các dự án đầu tư. Thông qua tổ tiếp nhận và trả hồ sơ tại
88
văn phòng Sở Kế hoạch đầu tư, các nhà đầu tư được hướng dẫn đầy đủ và cụ thể
các thủ tục hành chính có liên quan. Các phòng chuyên môn phối hợp thực hiện
chặt chẽ, trả hồ sơ tương đối đúng hẹn. Trong lĩnh vực thẩm định dự án đầu tư
thuộc nguồn vốn xây dựng cơ bản, sở đã niêm yết công khai các quy trình, thủ
tục tại phòng tiếp nhận hồ sơ. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ thường trực tất cả các
ngày làm việc trong tuần; đồng thời thẩm định, theo dõi, hướng dẫn thực hiện
các dự án đầu tư có nhu cầu thuê đất.
- Rút ngắn thời gian thẩm định dự án: Thời gian thẩm định và trình
UBND tỉnh sớm hơn so với quy định khoảng 3 ngày. Trong lĩnh vực cấp phép
các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, việc tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ các dự án
được thực hiện tốt, rút ngắn thời gian so với quy định.
- Trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các thủ tục
hành chính, chi phí, thời gian giải quyết công việc cần được công khai hóa; Mẫu
hóa cụ thể các loại giấy tờ trong hồ sơ đăng ký. Nhà đầu tư có nhu cầu đăng ký
kinh doanh không mất nhiều thời gian đi lại. Thời gian làm thủ tục đăng ký thành
lập mới doanh nghiệp được thực hiện trong vòng từ 3 đến 5 ngày.
- Tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đăng ký kinh
doanh. Để tiếp tục giảm thiểu các phiền hà trong cấp giấy phép đăng ký kinh
doanh, UBND tỉnh đã thành lập bộ phận đăng ký kinh doanh, cấp dấu và mã số
thuế liên thông ''một cửa" tại Sở Kế hoạch đầu tư. Thay vì trước đây, doanh
nghiệp phải đến cả 3 cơ quan là Sở Kế hoạch đầu tư, Công an và Cục Thuế tỉnh,
thì nay chỉ cần đến một nơi duy nhất là bộ phận "một cửa liên thông" tại Sở Kế
hoạch đầu tư.
- Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, thực hiện cơ chế "một cửa"
hiện nay tại Sở Kế hoạch đầu tư mới thực hiện đến khâu trình dự án, các khâu
sau đó sở không đủ chức năng để quản lý. Lĩnh vực thẩm định dự án đầu tư, hồ
sơ của một số dự án chỉ đưa ra được một phương án, chưa có các phương án so
sánh để tìm ra phương án tối ưu. Thuyết minh về khảo sát địa chất chưa thực
hiện được do phải chờ sau khi có kết luận của hội nghị thẩm định. Nội dung
89
thuyết minh về cơ sở đầu tư còn sơ sài, chưa đủ tính thuyết phục trước hội nghị
thẩm định...
Để từng bước khắc phục hạn chế trong cải cách thủ tục hành chính, Sở KHĐT dự kiến sớm bố trí lại cán bộ có đủ trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức để
thực hiện tại tiếp nhận hồ sơ. Hoàn thiện nguồn lực, cơ sở vật chất để thực hiện cải
cách thủ tục hành chính. Công khai hoá thủ tục hành chính bằng nhiều hình thức
phù hợp. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các sở, ngành liên quan và nhà đầu tư
nhằm rút ngắn thời gian thực hiện công việc, giảm phiền hà cho tổ chức và cá nhân.
Cấp có thẩm quyền cẩn quy định rõ giới hạn thới gian thực hiện "một cửa" cho việc
thẩm định và tổ chức thực hiện dự án có nhu cầu thuê đất, bởi hiện nay, Sở Kế
hoạch đầu tư chỉ thực hiện đến khâu lập tờ trình đề nghị UBND tỉnh chấp thuận dư
án đầu tư. Các khâu sau là văn bản chấp thuận dự án do Văn phòng UBND tỉnh
trình duyệt; thu hồi thu hồi đất do Sở Tài nguyên và Môi trường; tính toán đền bù
giải phóng mặt bằng do Sở Tài chính, quy hoạch do Sở Xây dựng... xây dựng và
trình duyệt.
- Để tạo thuận lợi hơn nữa cho nhà đầu tư, UBND và các cơ quan chính
quyền tỉnh cần thực hiện việc hiện đại hóa bộ máy hành chính và các thủ tục hành
chính trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quá trình làm việc để
nhà đầu tư có thể thực hiện được các thủ tục cần thiết thông qua mạng Internet,
nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà đầu tư.
3.2.3 Nhóm giải pháp về cải thiện kết cấu hạ tầng và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
3.2.3.1 Các giải pháp cải thiện kết cấu hạ tầng
Để khai thác các lợi thế về vị trí, giao thông trong tương lai khi việc xây
dựng mới Quốc lộ 5b Hải Dương cần có các giải pháp cụ thể liên quan đến quy
hoạch xây dựng các KCN và thu hút, thẩm định các dự án FDI bao gồm:
- Kêu gọi các nhà đầu tư thực hiện đầu tư xây dựng các KCN theo quy
hoạch của tỉnh và xúc tiến đầu tư.
90
Hiện nay Hải Dương cũng như các địa phương khác đang gặp khó khăn về
vốn khi thực hiện các chương trình phát triển kinh tế nói chung của tỉnh vì vậy
việc kêu gọi các nhà đầu tư là tư nhân hay tổ chức trong nước, ngoài nước góp
vốn tự xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN và xúc tiến đầu tư gảim bớt khó khăn
cho tỉnh. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư tương đối lớn, có
khả năng quảng bá chuyên nghiệp, có văn phòng đại diện ở nhiều nước trên thế
giới do vậy họ có khả năng tổ chức xúc tiến đầu tư tốt, hiệu quả.
Để thực hiện việc này tỉnh cần có chính sách rõ ràng hơn nữa về tài chính,
hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp tự xây dựng KCN và xúc tiến đầu tư.
Chính quyền tỉnh phải cam kết thực hiện các chính sách do mình đặt ra bởi vì
việc thu hồi vốn của các doanh nghiệp này qua thời gian dài. Chính quyền tỉnh
chỉ quản lý về trình tự, thủ tục và một số chỉ tiêu để cấp giấy phép đầu tư, không
can thiệp quá sâu vào hoạt động của các nhà đầu tư xây dựng KCN.
- Thực hiện xã hội hóa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Với nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng rất lớn trong khi ngân sách còn hạn
chế nên từ khá sớm, Hải Dương cần tiếp tục đề ra nhiều chính sách thông thoáng
nhằm thu hút nhiều nguồn lực xã hội đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Cần tiếp
tục tạo điều kiện thuật lợi cho các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực này dưới các
hình thức BT, BOT với các chính sách ưu đãi về thuế, giải phóng mặt bằng, thời
gian chuyển giao, …
3.2.3.2 Các giải pháp nhằm thu hút lao động, đảm bảo nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp FDI.
Việc thu hút lao động, đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp FDI
là một trong những giải pháp quan trọng của thu hút và nuôi dưỡng sự tăng
trưởng của các doanh nghiệp FDI tại Tỉnh Hải Dương. Nhằm thu hút lao động từ
các địa phương khác, đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp FDI, tác
giả đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau:
Nguồn nhân lực của Hải Dương dồi dào nhưng số lao động có trình độ
cao còn rất thấp.
91
Do đó tỉnh Hải Dương phải tạo được chuyển biến cơ bản về giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH, chú
trọng nhân lực có trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kỹ thuật lành
nghề, phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ,
tạo động lực đẩy nhanh CNH – HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo bước đột
phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong từng ngành và lĩnh vực của nền
kinh tế; nâng cao ý thức chấp hành thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Các trường dạy học và các trung tâm dạy nghề của Hải Dương phải đước
mở rộng hơn nữa về số lượng và loại hình đào tạo, chất lượng của các trung tâm
dạy nghề phải được nâng cao hơn mới có thể đáp ứng đựoc những yêu cầu tuyển
dụng ngày càng cao của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này phụ thuộc rất lớn
vào chính sách giáo dục của các cơ quan, ban nghành lãnh đạo của tỉnh.
* Phát triển các trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp - dạy nghề
Việc UBND tỉnh phê duyệt đề án phát triển các trung tâm kỹ thuật tổng
hợp – hướng nghiệp – dạy nghề ngay từ giai đoạn 2006-2010 thể hiện đã đi
trước, đón đầu được yêu cẩu cấp thiết về hướng nghiệp, dạy nghề. Các mục tiêu,
giải pháp của đề án được hoạch định vừa phù hợp với điều kiện cụ thể trước mặt
còn rất khó khăn của tỉnh, đồng thời cũng vừa đáp ứng được yêu cầu, xu hướng
phát triển sau này. Theo đề án, giai đoạn 2010-2020, tỉnh tiếp tục nâng cấp các
trung tâm hiện có (Thanh Hà, Nam Sách, Hải Dương, Tứ Kỳ), phấn đấu đến
năm 2015 có 4 trung tâm đạt chuẩn quốc gia, nếu điều kiện cho phép sẽ thành
lập thêm 1-3 trung tâm mới...
Trong những năm tiếp theo, căn cứ điều kiện cụ thể và kinh phí cho phép,
xây dựng mới trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp – dạy nghề ở những
huyện chưa có. Các trung tâm phải được xây dựng theo hướng đủ điều kiện để
đạt chuẩn quốc gia, dạy được các nghề theo quy định và tư vấn hướng nghiệp
cho học sinh; quy mô mới trung tâm là 130 lớp, dạy tối thiểu 13 nghề trong 5
nhóm nghề quy định. Với xuất phát ban đầu chỉ có 4 trung tâm, trang thiết bị
nghèo nàn, lạc hậu, việc thực hiện các mục tiêu của đề án phải hết sức khẩn
92
trương mới có thể bảo đảm được tiến độ. Trước hết, cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động, tạo nhận thức đúng đắn về việc phát triển các trung tâm
kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp – dạy nghề, từ đó thu hút được sự quan tâm
của các cấp uỷ, chính quyền địa phương chăm lo, đầu tư cho phát triển các trung
tâm. Đồng thời các trung tâm cần thực hiện tốt thu hút các nguồn lực, tăng
cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ và chất lượng dạy nghề, giáo
dục hướng nghiệp để dần thay đổi cách nhìn nhận của các cấp, các ngành về vai
trò của mình; thay đổi tâm lý học sinh và nhân dân trong việc học nghề, lựa
chọn nghề nghiệp. Các phòng giáo dục huyện, thành phố cần tích cực, chủ động
tham mưu với lãnh đạo địa phương để xây dựng đề án với lộ trình phù hợp và
sớm có quy hoạch diện tích xây dựng các trung tâm.
* Đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng dạy nghề
Nếu như năm 2000 trên địa bàn tỉnh Hải Dương chỉ có 13 cơ sở dạy nghề thì
đến nay đã có gần 50 cơ sở dạy nghề, đào tạo nghề cho hơn 70000 người.
Thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hoạt động dạy nghề, năm 2000 Uỷ
ban nhân dân tỉnh Hải Dương quyết định thành lập Trường công nhân kỹ thuật
với quy mô đào tạo 500 học sinh hệ dài hạn/năm, 300 học sinh hệ ngắn hạn/năm,
đồng thời không ngừng đầu tư nâng cấp các trung tâm Dịch vụ việc làm, củng cố
hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến huyện. Tháng 4/2002 thành lập quỹ khuyến
nông tỉnh, cho phép thành lập các cơ sở dạy nghề thuộc các thành phần kinh tế,
khôi phục và phát triển làng nghề, truyền nghề cho người lao động nhằm tạo việc
làm cho người lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến các huyện, thành phố được cũng cố,
tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng và từng bước hoạt động có hiểu quả.
Sau 4 năm đã phối hợp với các tổ chức đoàn thể mở 3.784 lớp tập huấn, chuyển
giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 340.000 lượt nông dân. Quỹ khuyến công
được thành lập từ tháng 4/2002 đã hỗ trợ 794,6 triệu đồng cho các cơ sở sản
xuất, các hợp tác xã khôi phục và phát triển làng nghề, tổ chức dạy nghề, tạo
việc làm cho 2.320 lao động nông nghiệp nông thôn.
93
Do làm tốt công tác nâng cao số lượng và chất lượng lao động trong đào
tạo nghề nên trong thời gian qua tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo nghề đạt
trên 80% ; 100% lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài được đào tạo giáo
dục định hướng chất lượng cao. Kết quả đã giải quyết việc làm cho 87.764 người,
trong đó lao động có thời hạn ở nước ngoài là có 11.067 người.
Bên cạnh nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác dạy nghề, các cơ
sở dạy nghề dân lập, cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
và người học cũng đóng góp một phần không nhỏ. Qua 4 năm người học nghề
và các cơ sở cử lao động đi học nghề đã đóng 14.632,467 tỷ đồng học phí
(chiếm 29,32% tổng chi cho dạy nghề 4 năm là 49.908,882 tỷ đồng).
Từ năm 2010 đến nay, tỉnh đã hỗ trợ 952 triệu đồng để miễn, giảm chi phí
học nghề ngắn hạn cho 1.190 học sinh thuộc các đối tượng con thương binh, liệt
sỹ, học sinh có hộ khẩu miền núi...;hỗ trợ 50% kinh phí học nghề cho các cơ sở
dạy nghề cho các doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp và làng nghề.
* Đẩy nhanh quy hoạch và triển khai xây dựng khu nhà ở cho người lao
động.
Tỉnh nên tiếp tục thực hiện quy hoạch và thực hiện đầu tư xây dựng các khu
nhà ở để cho người lao động thuê với nhiều loại phòng, căn hộ khác nhau.
Hướng lâu dài nên quy hoạch, gọi đầu tư xây dựng khu dân cư mới theo hướng
đảm bảo đầy đủ các dịch vụ nhất là văn hoá, giáo dục đảm bảo cho người lao
động gắn bó lâu dài với Hải dương.
Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp được thuê với giá ưu đãi. Các
doanh nghiệp FDI sẽ hỗ trợ một phần tiền thuê nhà cho người lao động. Nguồn
tài chính cho xây dựng nhà ở, khu dân cư sẽ bao gồm đầu tư của Tỉnh, vốn đầu
tư của các doanh nghiệp FDI, công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng. Việc xây dựng
nhà ở cho người lao động, đặc biệt là công nhân cần chú ý đến nhu cầu thực tế
của người lao động, tránh tình trạng nhà xây xong không có người ở. Nhà cho
người lao động cần gần nơi làm việc, chi phí sinh hoạt phù hợp với thu nhập,
sinh hoạt thuận tiện, đảm bảo an ninh.
94
* Vận động doanh nghiệp tham gia giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao
động.
Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu về lâu dài biện pháp có sứchấp dẫn
nhất để thu hút lao động nhập cư là phải nâng cao tiền lương cho người lao
động. Tiền lương phải thực sự có sức cạnh tranh trong thu hút lao động nhập cư.
Để đảm bảo thu hút lao động, nhóm nghiên cứu cho rằng cần có cuộc vận động
"Doanh nghiệp đồng hành cùng chính quyền" để giải quyết vấn đề lao động,
đảm bảo nguồn nhân lực lâu dài, ổn định cho các doanh nghiệp FDI. Chính
quyền cùng với Liên đoàn lao động Tỉnh Hải Dương chủ động vận động doanh
nghiệp FDI, các hiệp hội các nhà đầu tư tham gia giải quyết vấn đề này, theo
hướng sau: (i) Doanh nghiệp hỗ trợ một phần tiền nhà ở cho người lao động
(việc hỗ trợ tiền nhà ở không phải là tăng lương, không tăng đóng bảo hiểm xã
hội của doanh nghiệp), (ii) Doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng nhà ở cho
người lao động.
3.2.4 Các giải pháp liên quan đến xúc tiến đầu tư và thương mại
Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư và thương mại là một trong những nhóm giải
pháp quan trọng nhằm tăng cường thu hút, duy trì sự tăng trưởng của các doanh
nghiệp FDI vào tỉnh Hải Dương giai đoạn tới.
Việc xúc tiến cần gắn liền với khẩu hiệu “không quá nửa ngày bạn có thể
đến được Hải Dương” để tạo sự gần gũi với các nhà đầu tư hơn nữa. Bởi vì Hải
Dương gần Hà Nội chỉ cần hơn 1 giờ ô tô đã đến được Hải Dương, cộng thêm
khoảng 03 giờ bay đến Hà Nội, nếu bạn ở khu vực Đông Nam Á thì đã có thể có
mặt ở Hải Dương.
Các giải pháp cụ thể bao gồm:
3.2.4.1. Thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại thuộc UBND
tỉnh.
Việc thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại cho phép chuyên
môn hoá, chuyên nghiệp hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại của
tỉnh Hải Dương hiện nay. Việc thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư và thương
95
mại cho phép tập trung được các nguồn lực nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến
đầu tư và thương mại.
Theo kinh nghiệm quốc tế, thông thường các tổ chức xúc tiến đầu tư được
thành lập ở cấp quốc gia hay vùng/ lãnh thổ và thực hiện bốn mục tiêu gồm (1)
tạo cơ hội đầu tư; (2) tư vấn về chính sách; (3) cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho
nhà đầu tư; và (4) xây dựng hình ảnh quốc gia. Để đạt được những mục tiêu này,
các tổ chức xúc tiến đầu tư trên thế giới thường lựa chọn thực hiện các hoạt
động sau đây:
- Quảng cáo hình ảnh, thông tin đầu tư trên các phương tiện thích hợp;
- Tham gia vào các triển lãm, hội thảo đầu tư ở các cấp độ khác nhau;
- Tổ chức các đoàn làm việc xúc tiến đầu tư, tìm hiểu cơ hội đầu tư, tìm
hiểu đối tác;
- Cung cấp thông tin theo yêu cầu của các nhà đầu tư tiềm năng;
- Thực hiện các cuộc vận động, quảng bá cơ hội đầu tư trong nước;
- Cung cấp các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ "sau đầu tư".
Tùy vào đặc điểm của từng giai đoạn phát triển cụ thể mà một tổ chức xúc
tiến đầu tư có thể ưu tiên các nguồn lực cho một trong bốn mục tiêu kể trên.
Theo kinh nghiệm của nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư, trong giai đoạn hoạt động
ban đầu những tổ chức này thường tập trung vào marketing hình ảnh quốc gia/
vùng. Từ đầu thập niên 1990 đến nay, trọng tâm hoạt động của những cơ quan
này chuyển sang tạo cơ hội đầu tư.
Về thể chế hoạt động, các cơ quan xúc tiến đầu tư có nhiều hình thức thể
chế hoạt động khác nhau. Hình ảnh phổ biến nhất là một cơ quan xúc tiến đầu tư
trực thuộc Chính phủ/ chính quyền vùng. Về kinh phí hoạt động, dù có được tổ
chức dưới hình thức nào đi chăng nữa thì trung bình 70% kinh phí hoạt động của
các tổ chức xúc tiến đầu tư là ngân sách.
Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và thực tế tại tỉnh Hải Dương, việc thành
lập "Trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại" là đơn vị trực thuộc UBND tỉnh
Hải Dương. Trung tâm là có chức năng và nhiệm vụ chính như sau:
96