1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 157 trang )


9



Trong nền sản xuất hàng hoá, qui luật giá trị là qui luật kinh tế cơ bản và

cạnh tranh lấy qui luật giá trị làm tiền đề. Tác động của qui luật giá trị

trong việc kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, đào thải cái lạc

hậu dựa trên cơ sở công bằng - đó là sự trao đổi ngang giá. Trong điều

kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các chủ thể kinh tế phải đua nhau đổi

mới khâu tổ chức quản lý (sản xuất, lưu thông phân phối), đua nhau cải

tiến kỹ thuật, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản

xuất để nâng cao năng suất lao động, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm

thu lợi nhuận cao hơn các chủ thể kinh tế khác.

Có thể nói, để thắng được trong cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị

phần buộc các quốc gia, các doanh nghiệp, các ngành sản xuất sản phẩm

phải nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình

1.1.2 Năng lực cạnh tranh

Trong môi trường cạnh tranh, từng chủ thể kinh tế thể hiện vị thế

của mình so với các chủ thể khác. Vị thế đó, dựa trên những ưu thế nhất

định về các điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Sức cạnh tranh, khả

năng cạnh tranh, năng lực cạnh tranh đều phản ánh vị thế cạnh tranh của

các chủ thể kinh tế. Vị thế đó là những điều kiện để các chủ thể kinh tế

tham gia vào hoạt động cạnh tranh. Một chủ thể có sức cạnh tranh cao là

chủ thể có lợi thế, biết tạo ra những lợi thế để thu được lợi nhuận cao

hơn so với các chủ thể khác. Chủ thể đó cũng được coi là có khả năng

cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh cao. Vì vậy, có thể hiểu sức cạnh

tranh, năng lực cạnh tranh, khả năng cạnh tranh là những khái niệm đồng

nghĩa. Để xác định năng lực cạnh tranh hoặc khả năng cạnh tranh hay

sức cạnh tranh của một ngành kinh tế, của một đơn vị kinh doanh hoặc

của một sản phẩm người ta thường chọn ra một số tiêu thức như: thị

phần, tỷ lệ lợi nhuận trong một đơn vị sản phẩm. Những tiêu thức này



10



chỉ đánh giá trạng thái “tĩnh” vị trí của ngành (doanh nghiệp hoặc sản

phẩm) trong một thời điểm, trong khi đó cạnh tranh là một quá trình

mang tính “động”, vì vậy khi phân tích cạnh tranh, người ta thường bổ

sung vào một số yếu tố “động” khác như mức độ ứng dụng tiến bộ khoa

học công nghệ vào sản xuất, vòng đời của sản phẩm v.v... Trên cơ sở

phân tích này, các nhà kinh doanh có thể đưa ra những chiến lược kinh

doanh phù hợp với thị trường để duy trì và phát huy vị thế của mình trên

thị trường hoặc đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra.

Năng lực cạnh tranh được phân biệt ở ba cấp độ, bao gồm năng lực

cạnh tranh quốc gia; năng lực cạnh tranh doanh nghiệp; năng lực cạnh

tranh của sản phẩm, dịch vụ.

- Năng lực cạnh tranh quốc gia là một khái niệm phức hợp, được

định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền

vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời

sống của người dân, chủ yếu nhờ khả năng nâng cấp công nghệ hoặc

bằng cách tự sáng tạo hoặc tiếp thu nhanh chóng và tích cực công nghệ

từ nước khác. [2,tr. 13-14]

Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho rằng, tính cạnh tranh của một

quốc gia là “năng lực của nền kinh tế nhằm đạt và duy trì được mức tăng

trưởng cao" trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và

các đặc trưng kinh tế khác. Theo WEF, khuôn khổ nội dung xác định

tính cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế bao gồm tám nhóm nhân tố: độ

mở cửa; chính phủ; tài chính; kết cầu hạ tầng; công nghệ; quản trị; lao

động; và thể chế. [2,tr.13-14]

Chỉ số chung đánh giá thứ hạng cạnh tranh của các quốc gia được

tính theo tỷ trọng của tám nhóm nhân tố trên. Mỗi nhóm nhân tố lại được

xem xét dựa trên các tiểu nhóm nhân tố. Tất cả có khoảng 250 chỉ số



11



định tính và định lượng được sử dụng để đánh giá tính cạnh tranh cấp

quốc gia. Tuy không được nhìn nhận riêng và thật đầy đủ trong quan

niệm của WEF, song sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng là một nhóm nhân tố

quan trọng đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Các chỉ số quan

trọng nhất được dùng để đánh giá sự ổn định kinh tế vĩ mô là lạm phát,

lãi suất, tỉ giá hối đoái, thâm hụt tài chính và thâm hụt cán cân thanh toán

quốc tế.

Kể từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng về công nghệ thông

tin (IT) và những bước đột phá trong một loạt lĩnh vực như công nghệ

gen, y học, năng lượng, vật liệu mới,...đang đẩy nhanh quá trình chuyển

đổi từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên của kinh tế tri thức.

Ngày nay, lợi thế cạnh tranh truyền thống dựa trên tài nguyên thiên

nhiên và chi phí lao động thấp, tuy còn có giá trị, song mới chỉ là điểm

khởi đầu. Tri thức và kỹ năng đang trở thành một nhân tố then chốt đảm

bảo tính cạnh tranh cao.

- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các

đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông

thường, người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của

doanh nghiệp như: qui mô; khả năng tham gia cạnh tranh và rút khỏi thị

trường; sản phẩm; năng lực quản lý; năng suất lao động; trình độ công

nghệ và lao động. Tuy nhiên, những khả năng này lại lại bị tác động

đồng thời bởi nhiều yếu tố bên ngoài như Nhà nước và các thể chế trung

gian.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy

trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi

trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh

doanh một hay nhiều sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, vì vậy người ta



12



còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh

tranh của sản phẩm, dịch vụ.

- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ được đo bằng thị phần

của sản phẩm hay dịch vụ đó trên thị trường. Một sản phẩm, dịch vụ

được coi là có năng lực cạnh tranh cao khi giá thành sản xuất thấp, qui

mô cung ứng, tính độc đáo của sản phẩm và dịch vụ được người tiêu

dùng chấp nhận thể hiện ở thị phần của sản phẩm đó trên thị trường vượt

trội so với các sản phẩm tương tự của các đối thủ cạnh tranh. Đối với

hàng hoá nông sản thực phẩm, để đánh giá năng lực cạnh tranh ngoài các

chỉ tiêu trên người ta còn phải quan tâm đến các yếu tố như độ an toàn về

thực phẩm, xuất xứ, hương vị đặc trưng của sản phẩm.

Năng lực cạnh tranh của một sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi

thế so sánh của nó. Lợi thế so sánh lại được đánh giá theo nhiều tiêu thức

khác nhau. Quan niệm cổ điển đều xuất phát từ việc so sánh các yếu tố

cấu thành nên sản phẩm (vốn, lao động, nguyên liệu và vì vậy là chi phí,

giá thành và giá cả). Tuy nhiên, quan niệm về lợi thế so sánh hiện nay đã

có nhiều thay đổi.

Năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ đó có mối quan hệ qua lại mật

thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau.

Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh

nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh

nghiệp có năng lực cạnh tranh, các điều kiện, tiền đề kinh doanh của nền

kinh tế phải thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Năng

lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua chiến lược kinh doanh của

doanh nghiệp, đồng thời thể hiện thông qua năng lực cạnh tranh của các

sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. Ngược



13



lại, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ phụ thuộc vào năng lực

cạnh tranh quốc gia và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp.

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm là khắc phục những

trở ngại làm giảm sức cạnh tranh và hoàn thiện những nhân tố làm tăng

tính trội của nó làm cho thị phần của nó tăng lên so với thị phần của đối

thủ của nó.

Để nâng cao được năng lực cạnh tranh mỗi quốc gia, doanh nghiệp

và ngành sản xuất sản phẩm thường dựa vào lợi thế tuyệt đối, lợi thế so

sánh và lợi thế cạnh tranh.

Trong khuôn khổ của luận văn này tác giả xin chỉ đi sâu nghiên cứu

năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nền tảng để phân tích năng lực cạnh

tranh sản phẩm của một nước đối với các nước khác dựa trên lý thuyết

lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối và lợi thế cạnh tranh

1.1.3 Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của hàng hoá

Mỗi đất nước chỉ có những nguồn lực nhất định, nguồn lực luôn

luôn gắn liền với sự khan hiếm. Để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch

vụ nào đó với số lượng bao nhiêu, nhiều hay ít mỗi quốc gia phải có sự

lựa chọn sử dụng và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý dựa trên cơ

sở lý thuyết đường giới hạn khả năng sản xuất. Xét dưới góc độ hiệu quả

kinh tế, đương nhiên các quốc gia sẽ lựa chọn sản xuất những sản phẩm

lợi thế so sánh cao nhất, thông qua trao đổi thương mại quốc tế họ sẽ tận

dụng và phát huy được các lợi thế sẵn có và tiết kiệm được nguồn lực,

nâng cao hiệu quả kinh tế.

Từ thế kỷ 18 các nhà kinh tế học người Anh là Adam Smith và

David Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.

Đến nay, lý thuyết này vẫn được coi là lý thuyết nền tảng của thương

mại quốc tế. Trong khi đó, lợi thế cạnh tranh được xem như là những



14



vấn đề có tính chiến lược và sách lược của từng quốc gia, để phát huy

các yếu tố về lợi thế tuyệt đối và so sánh trong việc nâng cao năng lực

cạnh tranh của quốc gia cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất

khẩu trong mỗi quốc gia.

1.1.3.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế tuyệt đối

Lợi thế tuyệt đối là khái niệm chỉ sự trội hơn về lượng tuyệt đối của

nước này so với nước khác về một loại sản phẩm nào đó dựa trên chất

lượng của các nhân tố đầu vào của sản xuất tốt hơn. Các nhà kinh tế học

cổ điển đã cho rằng lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các nước phát triển các

ngành sản xuất chuyên môn hoá. Theo quan điểm này, quốc gia nào nào

có đất tốt thì chuyên môn hoá vào ngành trồng trọt và mua hàng công

nghiệp của các quốc gia khác. Ngược lại, nước nào có nhiều tài nguyên

khoáng sản thì nên phát triển công nghiệp và mua nông sản của các nước

khác [10, tr.358].

Adam Smith cho rằng, ở mỗi một quốc gia đều có những nguồn lực

và tài nguyên sẵn có như: đội ngũ lao động, nguồn vốn, đất đai, công

nghệ và truyền thống sản xuất kinh doanh. Theo Ông, "Những lợi thế tự

nhiên mà một nước có được đối với một nước khác trong việc sản xuất

các mặt hàng nào đó đôi khi lớn tới mức mà mọi người trên thế giới đều

công nhận là phí công vô ích khi cạnh tranh với họ về mặt hàng này [23,

tr. 652-653].

Như vậy, sự chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi sản phẩm dựa vào

lợi thế tuyệt đối sẽ đem lại lợi ích cho hai nước, do đó việc xác định

đúng những ngành, sản phẩm mà quốc gia có lợi thế tuyệt đối để khai

thác, sản xuất và xuất khẩu cũng góp phần quan trọng trong việc nâng

cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu và cuối cùng là thúc đẩy

kinh tế phát triển.



15



Tuy nhiên, lợi dụng lợi thế tuyệt đối cũng chỉ là một trong những

vấn đề cần quan tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá và

thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Bởi vì lợi thế tuyệt đối chỉ mang tính tạm

thời. Lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần của thương mại quốc

tế. Điều đó ngày càng được thể hiện rõ trong thực tế, có nhiều quốc gia

không có những thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên hay các nguồn lực

khác nhưng sản phẩm cùng loại của họ làm ra vẫn có sức cạnh tranh trên

thị trường thế giới nhờ những tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ

làm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm... Chính vì vậy mà

thương mại quốc tế trong các nước phát triển không thể được giải thích

chỉ bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Do sự hạn chế của lý thuyết về lợi

thế tuyệt đối và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên lý

thuyết lợi thế tương đối hay còn gọi lợi thế so sánh đã ra đời.

1.1.3.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh

Khác với lợi thế tuyệt đối nảy sinh từ sự khác biệt của giá thành và

chi phí sản xuất thực tế, lợi thế so sánh có được từ sự khác biệt về chi phí

cơ hội. Sự khác biệt về chi phí cơ hội là do các nước có sự khác nhau về

kỹ thuật công nghệ hoặc năng suất lao động trong việc sản xuất cùng

một loại sản phẩm.

Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng những mặt hàng khác

mà người ta phải từ bỏ để làm ra thêm một đơn vị mặt hàng đó

[5,tr.326]. Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt

hàng là khác nhau ở những nước khác nhau. Theo nhà kinh tế học David

Ricardo, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác

trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể

tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Trong quá trình tham

gia thương mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất



16



khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối thấp hơn so với

các nước khác [5,tr.327].

Song sự hạn chế ở mô hình David Ricardo là ông đã dựa trên hàng

loạt các giả thiết, đơn giản hoá lý thuyết về giá trị lao động, để chứng

minh cho qui luật này. Trên thực tế lao động không phải là đồng nhất,

những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, với mức lương

khác nhau. Hơn nữa hàng hoá làm ra không chỉ do lao động mà còn

nhiều yếu tố khác như đất, vốn, khoa học, công nghệ... chính là sự khác

biệt về nguồn lực giữa các nước, đồng thời mô hình Ricardo cũng bỏ qua

vai trò lợi thế về qui mô. Chính vì vậy lý thuyết này đã được nhiều nhà

kinh tế học nghiên cứu và phát triển trên nhiều mô hình về các yếu tố

chuyên biệt như quan điểm của G.Haberler và Heckscher- Ohlin ...về lợi

thế so sánh.

Tuy còn những hạn chế về lý luận trước thực tiễn phát triển phức

tạp của hoạt động thương mại quốc tế ngày nay, nhưng lý thuyết về lợi

thế tuyệt đối và tương đối vẫn đang chi phối động thái phát triển của

thương mại quốc tế. Các quốc gia đang mở rộng các mối quan hệ buôn

bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, nhằm phát huy lợi thế về các

nguồn lực sản xuất như vốn, khoa học công nghệ, lao động để sản xuất,

xuất khẩu các loại hàng hoá, dịch vụ có lợi thế nhất, nhằm thu được lợi

ích thương mại cao nhất, góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá, cần phải

khai thác theo cả hai hướng. Hướng thứ nhất là, dựa vào lợi thế sẵn có

như lao động, tài nguyên, vị trí địa lý... Hướng thứ hai là, dựa vào các lợi

thế có được nhờ nâng cao năng lực trong việc tăng năng suất lao động,

cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh, hợp lý hoá qui trình sản xuất.

Hướng thứ nhất có tính thụ động hơn và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn,



17



còn hướng thứ hai chủ động hơn và có tác dụng lâu dài hơn. Vì vậy,

muốn nâng cao năng lực cạnh tranh một cách bền vững cho hàng nông

sản xuất khẩu cần chú trọng nhiều hơn tới hướng thứ hai bằng cách tạo

môi trường thuận lợi để thúc đẩy các chủ thể sản xuất kinh doanh áp

dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất

lao động, tăng chất lượng hàng hoá và giảm giá thành sản phẩm.

1.1.3.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên lợi thế cạnh tranh

Hội nhập và tự do hoá thương mại vừa tạo tiền đề cho sự phát triển

kinh tế, vừa là những thách thức trước sự cạnh tranh của các nền kinh tế.

Để đảm bảo sự hội nhập có hiệu quả, các quốc gia cần phải xác định rõ

được các yếu tố thuận lợi và bất lợi trong quá trình phát triển như: vị trí

địa lý; sự ổn định chính trị; nguồn lao động (số lượng, chất lượng và tiền

lương); tài nguyên thiên nhiên; khoa học và công nghệ... Đây là những

yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia nó i chung,

trong phát triển nông nghiệp nói riêng. Trên cơ sở xác định chính xác các

lợi thế, cần phối hợp, phát huy và sử dụng các lợi thế này một cách đầy

đủ nhằm tạo ra “lợi thế mới có sức tổng hợp cao”.

Trong kinh tế thị trường, khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so

sánh đã khó, nhưng khai thác lợi thế cạnh tranh càng khó hơn. Đương

nhiên, những yếu tố về lợi thế chi phí thấp là rất quan trọng và có tính

quyết định, song cũng chỉ mới là tiền đề của lợi thế cạnh tranh. Các

doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh nếu họ sử dụng các nhân

tố đầu vào cho sản xuất có chi phí thấp. Tuy nhiên, có những trường hợp

sự dồi dào về nhân tố sản xuất lại làm giảm lợi thế cạnh tranh nếu như

chúng không được phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Chẳng hạn,

sự dồi dào về tài nguyên thiên nhiên hay nguồn lao động lại có thể giảm

động lực phát minh, sáng chế công nghệ sử dụng tiết kiệm các nguồn tài



18



nguyên này. Lợi thế cạnh tranh có được là do tác động của con người tạo

ra và nó có tính bền vững hơn.

Như vậy, không phải lợi thế so sánh nào cũng trở thành lợi thế

cạnh tranh và cũng không có nghĩa lợi thế cạnh tranh nào cũng là lợi thế

so sánh. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh không bao hàm lẫn nhau,

nhưng không đối lập nhau, mà có sự tác động qua lại, vừa là tiền đề vừa

là điều kiện cho nhau trong phát triển.

Ở cấp doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh được thể hiện ở chi phí thấp

hoặc ở tính chất độc đáo, phân biệt với các sản phẩm khác (bằng chất

lượng, tính năng sản phẩm, các dịch vụ sau bán hàng). Lợi thế cạnh tranh

của doanh nghiệp có thể xuất hiện ở bất kỳ khâu nào trong quá trình sản

xuất, kinh doanh bao gồm các hoạt động cơ bản (hoạt động cung ứng

đầu vào của sản xuất, hoạt động sản xuất, cung ứng đầu ra, tiếp thị, dịch

vụ sau bán hàng) và các hoạt động phụ trợ (cơ sở hạ tầng của doanh

nghiệp, quản lý nguồn nhân lực, phát triển công nghệ). Doanh nghiệp

phối hợp các hoạt động trên để tạo ra lợi thế về chi phí sản xuất hoặc tính

chất độc đáo của sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các

sản phẩm của mình.

1.1.4 Các nhân tố hình thành năng lực cạnh tranh của hàng

nông sản

Tính cạnh tranh của một sản phẩm trên thị trường phụ thuộc vào

hai nhóm nhân tố cơ bản đó là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố

khách quan.

Nhóm nhân tố chủ quan bao gồm tất cả những nhân tố tạo ra sự

hấp dẫn của sản phẩm đối với khách hàng như chất lượng, mẫu mã, giá

cả và sự thuận tiện trong tiêu dùng .v.v.



19



Nhóm nhân tố khách quan bao gồm những nhân tố làm thay đổi

quan hệ cung - cầu trên thị trường tại các thời điểm khác nhau, trong

nhóm này có cả những tác nhân ngẫu nhiên trong quá trình sản xuất như

thiên tai, mất mùa, sự khủng hoảng, khan hiếm về các nguồn đầu vào

cho sản xuất nào đó, sự thay đổi đột biến của công nghệ sản xuất và các

tác nhân dẫn đến thay đổi trong tiêu dùng (nhu cầu) của khách hàng về

một loại sản phẩm hàng hoá nào đó.

Việc nghiên cứu kỹ các nhân tố trong hai nhóm này trước khi đầu

tư sản xuất sẽ quyết định việc nhà sản xuất đưa ra thị trường sản phẩm

có năng lực cạnh tranh cao hay thấp. Điều đó có nghĩa là năng lực cạnh

tranh của từng sản phẩm cụ thể tuỳ thuộc vào mức độ hiểu biết và dự

đoán của nhà sản xuất về thị trường sản phẩm đó. Đây chính là thách

thức đối với mỗi nhà sản xuất trong kinh tế thị trường, nếu sản xuất mà

không nghiên cứu thị trường thì có thể coi là hành vi sản xuất “liều lĩnh”

mang nhiều rủi ro, thiếu sự đảm bảo thành công.

1.2 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA

HÀNG NÔNG SẢN



Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ

nào đó trên thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt

hay tính hơn hẳn của nó cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu

như: chất lượng sản phẩm, mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực

phẩm; khối lượng; kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm; thương hiệu sản phẩm;

môi trường kinh tế vĩ mô, các chính sách thương mại, thuế, tỷ giá, tín

dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ... và cuối cùng là chỉ tiêu về giá thành và

giá cả sản xuất.

Về mặt lý thuyết, để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm

người ta thường căn cứ trên các chỉ tiêu định tính và định lượng.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

×