Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 157 trang )
54
% trong GDP
26,20
24,20
24,20
23,80
24,53
23,24
23,03
21,83
21,76
Nguồn: [27-29]
Qua bảng 2.1 ta thấy giá trị sản lượng ngành nông nghiệp năm 2004
so năm 2003 tăng 3,5% và so năm 1995 tăng 66%.
Bảng 2.2: Giá trị sản xuất nông nghiệp
(Giá cố định 1994; Năm trước = 100%). Đơn vị tính: Tỷ đồng
Trong đó
Năm
Tổng số
Giá trị
Trồng trọt
(% )
Giá trị
Chăn nuôi
(% )
Giá trị
Dịch vụ
(% )
Giá trị
(% )
1990
61817
100,0
49604
80,2
10238
16,6
1930
3,2
1991
63512
100,0
51247
80,7
10294
16,2
1970
3,1
1992
58820
100,0
55132
81,7
11651
16,9
2036
3,0
1993
73380
100,0
58906
80,2
12309
16,8
2165
3,0
1994
76998
100,0
61660
80,1
12999
16,9
2339
3,0
1995
82307
100,0
66183
80,4
13629
16,6
2494
3,0
1996
86489
100,0
69620
80,5
14347
16,6
2521
2,9
1997
92530
100,0
74492
80,5
15465
16,7
2572
2,8
1998
96102
100,0
77298
80,4
16204
16,9
2600
2,7
1999
106967
100,0
6782
79.2
17337
18,5
2650
2,7
2000
112112
100,0
90858
78,2
18505
19,3
2748
2,5
2001
114989
100,0
92707
77,9
19282
19,6
2800
2,5
2002
122150
100,0
98060
76,7
21200
21,1
2890
2,2
2003
127111
100,0
101210
75,4
22944
22,4
2956
2,2
2004
136819
100,0
103298
75,5
29006
21,2
4926
3,6
69472
4,8
57122
4,9
11853
4,8
2155
4,3
97034
4,4
78117
4,3
16294
4,7
2621
1,8
82000
5,0
66665
5,0
13872
5,3
2367
3,3
122636
4,4
97227
3,0
22187
5,1
16320
1,9
BQ.(901995)
BQ. (952000)
BQ. (902000)
BQ. (20002004*ước
55
Nguồn: [27-29]
56
Thứ hai, sản xuất lương thực có bước tiến đáng kể. Từ khi có Nghị
quyết 10 của Bộ chính trị (tháng 4 năm 1988), nông nghiệp nói chung và
ngành sản xuất lương thực nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Sản xuất lương thực, rau quả và cây công nghiệp, chăn nuôi đều có
những bước phát triển mạnh mẽ. Trong đó, sản xuất lúa gạo đã đạt được
những thành tựu đáng khích lệ. Sản xuất lúa tăng nhanh trên cả 3 phương
diện: diện tích, năng xuất và sản lượng, tốc độ tăng sản lượng bình quân
(1990 - 2000) đạt 4,5% cao hơn tốc độ tăng dân số (2,2%), do vậy lương
thực không chỉ đảm bảo yêu cầu trong nước, mà xuất khẩu ngày càng
tăng. Từ chỗ phải nhập khẩu bình quân hàng năm khoảng 0,5 triệu tấn
gạo, từ năm 1989 đến nay đã sản xuất đủ lương thực tiêu dùng trong
nước và có khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng (xuất khẩu gạo năm
1999 đạt 4,6 tr. tấn, năm 2005 dự kiến xuất khẩu 4 triệu tấn). Sản lượng
lương thực giai đoạn 1995-2004 tăng khoảng 5,2%/năm (bảng 2.3).
Bảng 2.3: Kết quả sản xuất lúa giai đoạn từ 1995-2004
Năm
Diện tích
1000 ha
Năng xuất
% tăng
Tạ /ha
% tăng
Sản lượng
1000 tấn
% tăng
1995
6765,6
2,53
36,8
3,23
24.630,0
4,68
1996
7020,7
3,77
37,6
2,17
26.397,0
7,17
2000
7666,3
-0,30
41,2
0,40
32.530,0
10,40
2001
7496,7
-0,22
42,4
2,90
32.100,0
-0,60
2002
7504,3
0,01
45,9
8,30
34.450,0
8,00
2003
7449,3
-0,10
46,3
0,87
34.500,0
0,60
2004
7420,0
-0,40
48,1
3,89
35.700,0
3,50
7352,7
1,70
39,9
2,38
35.700,0
3,50
7339,9
1,39
41,8
3,11
30.849,3
5,20
BQ. (1996 2000)
BQ. (1995 2004)* ước
Nguồn: [8, tr.8-9, 27-29]
57
Thứ ba, diện tích, năng suất và sản lượng các loại cây công nghiệp,
rau đậu và các nông sản khác cũng tăng lên đáng kể.
Cùng với cây lương thực, diện tích, năng xuất, sản lượng nhiều cây
trồng khác cũng có bước phát triển mạnh như: cà phê, cao su, điều và các
loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu. Đã hình thành
nhiều vùng sản xuất tập trung lớn, cơ cấu chủng loại nông sản phẩm và
hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ngày càng
phong phú, đa dạng hơn (bảng 2.4).
Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lƣợng một số
nông sản xuất khẩu
Năm
Cà phê
cao su
Diện
Năng
Sản
tích
xuất
(1000
ha)
Diện
chè
Năng Sản
Diện
Năng Sản
lƣợng tích
xuất
lƣợng
tích
xuất
lƣợng
(Tạ
(1000
(1000
(Tạ
(1000
(1000
(Tạ
(1000
/ha)
tấn)
ha)
/ha)
tấn)
ha
/ha)
tấn)
1995
186,4
21,8
218,0 278,4
4,48
124,7
66,7
6,04
40,2
1996
254,2
20,3
316,9 254,2
5,60
142,5
74,8
6,26
46,8
1997
340,3
24,7
402,5 347,5
5,37
186,5
78,6
6,64
52,2
1998
370,6
19,9
409,3 382,0
5,06
193,5
77,4
7,31
56,6
1999
408,0
14,7
509,8 394,9
6,30
248,7
84,8
8,29
70,3
2000
561,3
19,2
802,5 406,9
7,17
291,9
87,7
7,97
69,9
2001
591,3
17,8
840,6 415,8
7,52
312,6
98,3
7,70
75,7
2002
522,2
15,8
699,5 428,8
6,95
298,2 109,3
8,62
94,2
2003
513,7
15,0
771,2 436,5
7,19
313,9 116,2
8,13
94,5
2004
503,2
834,6
Nguồn: [8, tr.8-9, 27-29]
400,1
145,5
58
Thứ tư, ngành chăn nuôi cũng đã có tốc độ tăng trưởng khá cao và
ổn định. Năm 2002 tăng 9,9%, năm 2003 tăng 8,2% và năm 2004 tăng
2,2% [8,tr.8]. Năm 2004 tốc độ tăng chậm lại là do ảnh hưởng bởi dịch
cúm gia cầm. Nét nổi bật trong ngành chăn nuôi là đang dần chuyển sang
sản xuất hàng hoá, sản xuất theo mô hình trang trại với qui mô lớn và áp
dụng phương pháp chăn nuôi công nghiệp. Cùng với việc phát triển đàn
gia súc truyền thống, trong vài năm gần đây ngành chăn nuôi Việt Nam
đang chú ý phát triển các hàng hoá mới như chăn nuôi cừu, đà điểu, bò
lai sind, bò sữa nhập ngoại, lợn hướng nạc, lợn sữa xuất khẩu, ngan
Pháp, vịt Thượng Hải... do đó sản phẩm chăn nuôi đã đáp ứng tốt hơn
nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu.
Thứ năm, xuất khẩu có những bước tiến vượt bậc. Trong giai đoạn
1990 - 2000, giá trị xuất khẩu chung tăng 20,35%/năm, trong đó giá trị
kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng bình quân 17,30%/năm. Thị trường
xuất khẩu hàng hoá nói chung, thị trường nông sản nói riêng cũng có
những thay đổi tích cực theo hướng cố gắng giữ ổn định những thị
trường truyền thống đồng thời nhanh chóng mở rộng thị trường xuất
khẩu mới. Đến nay hàng hoá nông sản Việt Nam đã thâm nhập được hầu
hết các thị trường trên thế giới, ví dụ gạo Việt Nam từ năm 1990-1992
chỉ xuất sang được 15 nước và phải nhờ qua trung gian thì nay đã có mặt
trên trên 50 nước, cà phê trên 40 nước, chè 42 nước.
Bảng 2.5: Giá trị xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 1995 - 2004
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu
1995
1999
2000
2001
2004
Tổng GT-XK
5.448,9
11.540 14.428,7 15.029,2
Giá trị hàng NLN
2.521,1
3.600,0
4.100,0
5.066,9
6.951,0
-Trong đó: nông sản
1.745,8
2.350,6
2.563,3
2.421,3
4.550,0
26.504,2
59
% GTXK nông sản/
tổng GTXK
32,0
20,4
Nguồn: [8, tr.8-9, 27-29]
17,7
16,1
17,2
60
Qua bảng 2.5 ta thấy giá trị xuất khẩu nông sản ngày một tăng, năm
2004 so với năm 1995 tăng gấp 2,76 lần. Thể hiện sự phát triển nhanh
chóng của sản xuất nông nghiệp hướng ra xuất khẩu. Kim ngạch nông
sản xuất khẩu tăng bình quân gần 20%/năm. Trong khi đó tỷ trọng xuất
khẩu nông sản trong tổng giá trị xuất khẩu giảm từ 30,2% năm 1995
xuống 17,7% năm 2000 và 17,2% năm 2004. Điều này thể hiện sự thay
đổi theo chiều hướng tiến bộ trong cơ cấu của nền kinh tế, phù hợp với
yêu cầu phát triển của đất nước theo hướng CNH, HĐH. Đồng thời xuất
khẩu nông sản vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy tiến trình CNH.
Đổi mới cơ chế kinh tế đã thực sự tạo điều kiện cho ngành nông
nghiệp phát huy các lợi thế để tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu, nhiều
mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam đã tăng được thị phần và có sức
cạnh tranh cao trên thị trường thế giới như: gạo chiếm tới 20%; cà phê
chiếm 10%; điều chiếm 15% thị phần thế giới. Ngoài ra chè, cao su, hoa
quả,...cũng đã có những bước phát triển khá.
Kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu của nước ta thời gian
qua là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Song một vấn đề quan trọng và có tính quyết định là tích cực cải thiện
môi trường kinh tế vĩ mô, và môi trường thương mại cho hoạt động xuất
khẩu, không ngừng đổi mới chính sách nhằm khơi dậy và phát huy tốt
những lợi thế đó để phát triển.
Xu hướng phát triển về sản xuất nông sản trong thời gian qua thể
hiện rõ những nét nỗi bật sau:
- Sản xuất nông sản đã đi vào thế ổn định và phát triển theo hướng
thâm canh, áp dụng các tiến bộ KHKT. Nhờ thế đã nâng cao được năng
suất, chất lượng và tỷ suất hàng hoá.
61
- Nhiều tiến bộ KHKT được ứng dụng như đã đưa vào sản xuất đại
trà nhiều giống lúa có năng suất và chất lượng cao như CR 203; OM 80 81, IR 58; IR 64; các giống lai Trung Quốc và một số giống đặc sản có
chất lượng và phẩm cấp cao. Từ đó đã có những thay đổi sâu sắc trong
chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất, hạn chế và tránh
né được nhiều thiệt hại do thời tiết gây ra.
2.2.2 Những hạn chế
Kết quả sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói trên
trong những năm qua rất đáng kích lệ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiềm
năng và lợi thế chưa được khai và phát huy một cách triệt để nhằm tăng
năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu. Các mặt hàng xuất
khẩu còn đơn điệu, xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô là chính, do vậy
không chỉ hạn chế về hiệu quả kinh tế mà còn giảm các lợi ích xã hội
(lao động, việc làm, thu nhập). Thực tế cho thấy, giá trị sản phẩm thô,
nguyên liệu trong giá trị quốc tế của hàng hoá xuất khẩu thường chiếm tỷ
lệ rất nhỏ so với phần giá trị chế biến. Tỷ lệ xuất khẩu dạng nguyên liệu
thô và sơ chế trong tổng khối lượng hàng xuất khẩu còn lớn phản ánh sự
yếu kém trong chế biến nông sản.
Những yếu kém của nông nghiệp Việt Nam thể hiện ở những điểm
sau:
Thứ nhất, cơ cấu sản xuất tuy đã có sự chuyển dịch tích cực song
còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng lợi thế của địa phương, lao động
nông thôn thiếu việc làm còn lớn, thu nhập của nông dân tuy có tăng
nhưng vẫn còn ở mức thấp và chưa vững chắc. Việc chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông sản chưa bám sát tín hiệu thị trường thế giới nên nhiều sản
phẩm làm ra khó và “không” tiêu thụ được (ví dụ, sản xuất quả vải năm
2003, sản xuất dưa hấu năm 2005, sản xuất hạt tiêu năm 2005).
62
Thứ hai, so với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn nhiều yếu kém, công nghệ
lạc hậu nhất là công nghệ sinh học, công nghệ chế biến nông sản do đó
sản phẩm làm ra giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã không phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng dẫn đến khó tiêu thụ.
Thứ ba, trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng sản xuất nông
nghiệp có xu hướng giảm sút, bên cạnh đó thị trường hàng nông sản
quốc tế có nhiều biến động không thuận, giá một số hàng nông sản biến
động thất thường và có xu hướng giảm mạnh (giá cà phê, chè) làm giảm
sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu của Việt Nam (do chi phí sản
xuất nội địa cao). Hơn nữa giá những vật tư "đầu vào" cho sản xuất nông
nghiệp như phân bón, xăng dầu, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc và thuốc
phòng bệnh gia súc, gia cầm Việt Nam còn bị lệ thuộc rất lớn vào thị
trường thế giới nên đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất và thu
nhập của nông dân khi có biến động tăng giá vật tư trên thế giới.
Thứ tư, xuất khẩu nông sản trong thời gian qua có sự tăng trưởng,
nhưng xét về qui mô vẫn còn nhỏ bé so với các nước trong khu vực cả về
tổng kim ngạch và kim ngạch tính trên đầu người.
Mặt khác, số lượng và chủng loại sản phẩm xuất khẩu còn đơn điệu
và một số sản phẩm có chiều hướng giảm sút như: lạc, đậu tương, ngô.
Đáng lẽ ra, những sản phẩm này Việt Nam có rất nhiều lợi thế về điều
kiện tự nhiên để phát triển.
Một số nông sản tuy bước đầu đã tạo được chổ đứng trên thị
trường, nhưng khả năng cạnh tranh vẫn còn thấp. Tài liệu nghiên cứu của
Tổ chức phát triển Liên Hiệp quốc (UNIDO) gần đây cho rằng “hiện nay
ở Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên mức lương thấp
và nguồn tài nguyên thiên nhiên”. Đây là nhận xét chính xác. Nhưng ưu
63
thế này sẽ giảm dần cùng với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế. Công tác thâm nhập, mở rộng và ổn định thị trường tiêu thụ,
cũng như thu mua, chế biến, vận chuyển, bảo quản nông sản còn nhiều
bất cập với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá hướng vào
xuất khẩu.
Công tác quản lý của Nhà nước về thương mại tuy có nhiều sự cải
tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động. Sự phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương chưa tạo được sức mạnh tổng hợp và còn thiếu nhiều
cán bộ quản lý có trình độ. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ nội địa đặc biệt
thị trường nông thôn chưa quan tâm đúng mức.
Thứ năm, cùng với mở cửa và hội nhập, hàng Việt Nam có được thị
trường rộng lớn hơn, nhưng đồng thời hàng hoá của nước ngoài cũng
thâm nhập thị trường nội địa nên hàng hoá của Việt Nam không chỉ phải
cạnh tranh với hàng của các nước khác trên thị trường khu vực và quốc
tế mà phải cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa (ví dụ, gạo chất
lượng cao của Thái Lan vừa qua đang tràn ngập ở thị trường Việt Nam).
Tuy vậy, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và chế biến nông sản chưa
xây dựng được cho mình chiến lược cạnh tranh trong khi thời hạn thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ khi hội nhập đang đến gần. Hiện đang có tình
trạng nhiều ngành sản xuất và doanh nghiệp đang theo đuổi một chiến
lược cạnh tranh thụ động dựa vào các “lợi thế trời cho” là chính. Các yếu
tố như lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí độc quyền, trợ cấp, lãi
suất ưu đãi, khung thuế... được các doanh nghiệp coi như cơ sở tồn tại và
phát triển. Rất ít doanh nghiệp dám theo đuổi một chiến lược chủ động
mà điểm cốt lõi là tạo ra một vị thế cạnh tranh khác biệt, tạo ra sản phẩm
độc đáo hơn cũng như qui trình sản xuất hợp lý hơn.
64
Thứ sáu, tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế
trong khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển ở trình độ thấp, lại
đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường nên một số thị
trường đang trong quá trình hình thành, hoạt động không hoàn chỉnh,
chịu sự chi phối của nhiều chính sách khác nhau. Trong lĩnh vực sản
xuất, sự yếu kém về công nghệ, cơ sở hạ tầng, quản lý làm giá thành sản
xuất cao, hiệu quả thấp. Về tiêu dùng, thu nhập dân cư thấp, sức mua hạn
chế làm thị trường trong nước chưa phát huy được khả năng. Trong kinh
doanh, nhiều DNNN đang trong quá trình sắp xếp lại tổ chức, vốn ít,
trình độ quản lý hạn chế, nên hiệu quả kinh doanh thấp, khả năng tiếp
cận thị trường kém, các doanh nghiệp tư nhân nhỏ bé, non trẻ và chưa
được hỗ trợ đầy đủ để tham gia cạnh tranh quốc tế.
Tham gia vào AFTA, nhưng cơ cấu sản phẩm nông nghiệp của Việt
Nam về cơ bản tương đối giống với cơ cấu nông nghiệp của các nước
ASEAN, trong khi nông sản xuất khẩu của ta chủ yếu lại dưới dạng chưa
chế biến hoặc mới sơ chế, nên dù đưa vào thực hiện CEPT/AFTA sớm
nhưng tác dụng tăng cường xuất khẩu chưa thể hiện mạnh và rõ rệt.
2.3 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG
SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM
2.3.1 Qui mô, khối lƣợng và khả năng cung ứng sản phẩm
2.3.1.1 Qui mô cung ứng sản phẩm
Những năm gần đây ở Việt Nam đã hình thành các vùng sản xuất
nông sản xuất khẩu tập trung như vùng trồng lúa xuất khẩu ĐBSCL, sản
lượng lúa tăng bình quân 7%/năm, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn từ 6,5
- 7,0 triệu tấn thóc và ĐBSH sản lượng bình quân tăng 3,5%/năm, có
khối lượng hàng hoá khoảng 1 triệu tấn thóc; vùng sản xuất cao su Đông
Nam Bộ và Tây Nguyên (diện tích của 2 vùng Đông Nam Bộ và Tây