1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

4 PHÂN LOẠI NÔNG SẢN VIỆT NAM THEO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 157 trang )


95



2.4.1 Nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao

Nhóm này thể hiện rõ rệt về cả ưu thế tự nhiên và kinh tế xã hội,

ngay trong tình hình công nghệ hiện nay vẫn có giá thành thấp hơn so

với mọi mức biến động giá cả thị trường quốc tế, có tiềm năng phát triển

lâu dài, có thị trường rộng. Thể hiện lợi thế cạnh tranh so với các nước

xuất khẩu khác về ít nhất một trong các mặt sau: năng suất, phẩm chất

hoặc giá thành. Việt Nam có 3 sản phẩm chính nằm trong nhóm này: cà

phê (năng suất cao, phẩm chất tốt), hạt điều (phẩm chất cao, công nghệ

chế biến tốt) và gạo (giá thành thấp). Nhìn chung những ngành hàng này

có lợi thế so sánh cao dựa trên tài nguyên đặc thù, chi phí lao động rẻ.

2.4.2 Nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh trung bình

Nhóm này có lợi thế về điều kiện tự nhiên, nhưng kỹ thuật sản xuất

nguyên liệu thô và công nghệ chế biến kém làm năng suất, chất lượng,

giá thành không vượt trội hẳn so với các nước xuất khẩu khác, khả năng

xuất khẩu tùy thuộc vào biến động giá cả thị trường quốc tế, năm nào giá

cao xuất khẩu có lợi, năm nào giá thấp chịu lỗ hoặc thu hẹp xuất khẩu.

Thị trường không ổn định. Các mặt hàng trong nhóm này gồm: cao su,

chè, hạt tiêu,... Những sản phẩm này hiện đang gặp khó khăn trong cạnh

tranh với các đối thủ cạnh tranh về các mặt như giá cả, chất lượng,

thương hiệu sản phẩm và thị trường.

2.4.3 Nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh thấp

Nhóm này có một số lợi thế về tự nhiên hoặc xã hội, nhưng có

nhiều cản trở về kỹ thuật, tổ chức, cơ sở hạ tầng, chính sách. Những sản

phẩm thuộc nhóm này thường có năng suất thấp, chi phí cao, chất lượng

giống thua kém các nước cùng sản xuất, công nghệ chế biến lạc hậu.

Những sản phẩm này hiện chưa có thị trường rõ rệt, mặc dù có thị trường

triển vọng trong tương lai. Xuất khẩu được với số lượng hạn chế khi có



96



điều kiện buôn bán thuận lợi, bị xâm nhập thị trường khi điều kiện buôn

bán trở nên bất lợi, phải áp dụng các biện pháp bảo vệ mậu dịch để duy

trì thị trường trong nước. Các mặt hàng sau thuộc loại này: rau quả, thịt

lợn [2, tr161-164].

Nhìn chung, việc xác định năng lực cạnh tranh theo các tiêu chí trên

giúp chúng ta nhận thức rõ hơn năng lực cạnh tranh của từng nhóm mặt

hàng để từ đó có những đối sách phù hợp. Tuy nhiên, việc phân nhóm

trên chỉ là tạm thời vì năng lực cạnh tranh của từng mặt hàng phụ thuộc

rất nhiều vào các yếu tố định tính và định lượng, các chính sách vĩ mô

của Chính phủ, môi trường thương mại v.v...mà những yếu tố này lại

biến động rất lớn theo từng thời kỳ cụ thể.

Kết luận chƣơng 2:

Bức tranh toàn cảnh về năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất

khẩu của Việt nam trong giai đoạn từ 1995-2004 đã được thể hiện trong

chương 2. Thông qua các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản

phẩm cho thấy, Việt Nam có nhiều lợi thế về sản xuất nông sản xuất

khẩu như vị trí điạ lý thuận tiện trong buôn bán, sự đa dạng của tài

nguyên thiên nhiên, khí hậu phù hợp, nguồn lao động dồi dào, giá nhân

công rẻ nhưng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt

nam chưa cao, thậm chí có nhiều mặt hàng năng lực cạnh trạnh đang có

chiều hướng giảm là do:

+ Việt Nam mới chỉ có lợi thế so sánh tĩnh (tài nguyên nhiên nhiên

ở dạng thô, nguồn lao động dồi dào nhưng thiếu kỹ năng,...), mà thiếu

những lợi thế so sánh động (phát triển khoa học công nghệ, lao động có

kỹ năng,..). Do đó chưa tận dụng được lợi thế so sánh tĩnh để nâng cao

năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu.



97



+ Việc qui hoạch vùng sản xuất chưa gắn với việc cung ứng các

dịch vụ đầu vào nên chưa khai thác được lợi thế về qui mô.

+ Khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng nhưng xuất khẩu nguyên

liệu thô là chủ yếu, hàm lượng chất xám trong sản phẩm xuất khẩu thấp

nên chưa tận dụng được lợi thế về thị phần xuất khẩu trong việc mặc cả

giá. Thị trường xuất khẩu xuất khẩu nông sản tuy được mở rộng nhưng

vẫn thiếu tính bền vững.

+ Khả năng sẵn sàng cung ứng sản phẩm cho xuất khẩu kém do qui

mô sản xuất của các hộ gia đình nhỏ lẻ do bị hạn chế bởi hạn điền dẫn

tới khó khăn trong cơ giới hoá nông nghiệp, áp dụng công nghệ tiên tiến

vào sản xuất. Hơn nữa, trình độ sản xuất của các vùng, các hộ gia đình

có sự chênh lệch lớn dẫn tới sản phẩm làm ra chất lượng không ổn định.

+ Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của việt Nam vẫn

thua kém các đối thủ cạnh tranh do đầu tư xây dựng sở hạ tầng phục vụ

cho sản xuất nông nghiệp thấp nhất là đầu tư cho phát triển công nghệ

sinh học và công nghệ chế biến nông sản. Do đó, công nghệ sinh học và

công nghệ chế biến nông sản lạc hậu, chậm được đổi mới dẫn tới giá

thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm thấp, tính đa dạng của sản

phẩm kém, mẫu mã đơn điệu nên khó cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Ngoài ra, công tác phổ biến công nghệ (công nghệ sản xuất, công nghệ

trước sau thu hoạch) đến người sản xuất thực hiện chưa tốt cũng là một

nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng nông sản.

+ Chủng loại, mẫu mã nông sản xuất khẩu đơn điệu chưa quan tâm

đến nhu cầu của thị trường nên khó cạnh tranh với các đối thủ canh trên

thị trường thế giới.

+ Vấn đề xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại chưa được

quan tâm đúng mức, phần lớn nông sản xuất khẩu của Việt Nam không



98



có thương hiệu ở nước ngoài. Công tác nghiên cứu thị trường chưa được

đầu tư thoả đáng cả về điều kiện vật chất và năng lực nghiên cứu cũng

gây thua thiệt lớn trong xuất khẩu nông sản. Hơn nữa, do tác phong sản

xuất nhỏ vẫn còn bám sâu vào tiềm thức của người sản xuất thậm chí cả

ngưòi làm công tác kinh doanh xuất khẩu nông sản nên việc giữ chữ tín

với khách hàng chưa được đặc biệt coi trọng. Đây là một trở ngại không

nhỏ cho Việt Nam đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng

nông sản xuất khẩu trong bối cảnh cạnh tranh về chất lượng, thương hiệu

và uy tín đang được coi là phổ biến.

+ Môi trường kinh doanh ở Việt Nam tuy đã có nhiều thay đổi theo

hướng tích cực nhưng chưa thực sự thông thoáng do thủ tục hành chính

còn rườm rà gây tốn kém thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, các chi

phí dịch vụ đầu vào, chi phí thuê kho bãi, chi phí vận chuyển cao; Còn

sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận

nguồn vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh; thị trường các yếu tố sản

xuất chậm ra đời là những nguyên nhân quan trọng làm giảm năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.

Tác giả cho rằng, nhận thức được đầy đủ những lợi thế và những

bất lợi trong sản xuất kinh doanh nông sản là một vấn đề có ý nghĩa

quan trọng giúp chúng ta chủ động khắc phục những hạn chế, phát huy

những thế mạnh để tăng sức cạnh tranh một cánh bền vững. Để làm được

điều đó đòi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, các cấp các

ngành và người sản xuất. Đặc biệt là vai trò điều tiết của Chính phủ,

nhằm chủ động tạo lập và xây dựng các chiến lược mặt hàng xuất khẩu,

ngành hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu chủ lực, tạo sức cạnh

tranh cho sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới.



99



Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH

TRANH CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM

3.1 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM



3.1.1 Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế

quốc tế

Cho đến nay, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu mới tập

trung phát triển theo bề rộng trên cơ sở khai thác những tài nguyên

thiên nhiên sẵn có và nguồn lao động dồi dào với giá rẻ. Trong sản xuất,

vấn đề số lượng vẫn được coi trọng hơn chất lượng nông sản, mức đầu

tư khoa học và kỹ thuật thấp, năng lực cạnh tranh của một số hàng nông

sản của nước ta trên thị trường thế giới còn thấp do năng suất, chất

lượng thấp, chi phí sản xuất cao, tính đa dạng về mẫu mã sản phẩm

thấp, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến lạc hậu, chưa xây

dựng được thương hiệu cho sản phẩm. Đó cũng chính là những nguyên

nhân quan trọng làm cho nông sản Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu

đa dạng của thị trường thế giới, hiệu quả xuất khẩu thấp và người sản

xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá.

Việc Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với khu vực và thế

giới như tham gia Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Tổ chức

khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Tổ chức khu vực mậu dịch tự

do ASEAN - Trung Quốc và chuẩn bị gia nhập WTO, một mặt đã tạo ra

nhiều cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển sản xuất và xuất khẩu

những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh nhờ đó mà nguồn lực được phân

bổ có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng tạo ra những thách thức không

nhỏ cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam.



100



3.1.1.1 Những cơ hội

Những cơ hội chủ yếu của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế

được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, do hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các hiệp định thương

mại song phương và đa phương, tham gia vào các định chế khu vực và

quốc tế, Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản.

Quá trình đó cũng tạo nên sức ép hữu hình thúc đẩy đổi mới lĩnh vực

sản xuất nông nghiệp, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ

tiên tiến để phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tài nguyên

sinh học đa dạng và nguồn nhân lực dồi dào của nước ta.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội thuận lợi cho Việt Nam

thu hút đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn. Điều này được lý

giải bởi Việt Nam là quốc gia có tiềm năng và lợi thế để phát triển nền

nông nghiệp có hiệu quả kinh kế cao; nhiều hàng nông sản xuất khẩu

của Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới; nông

nghiệp và nông thôn là khu vực luôn được Đảng và Chính phủ Việt

Nam khuyến khích đầu tư, do vậy nhận được sự ưu đãi đầu tư cao; và

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tính ổn định cao về môi trường

chính trị – xã hội là một trong những điểm mà người đầu tư đặc biệt

quan tâm. Có thể hy vọng rằng, với chính sách chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế, trong tương lai nông nghiệp và nông thôn Việt Nam sẽ trở

thành lĩnh vực hấp dẫn mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài.

Ba là, hội nhập sâu và rộng hơn vào đời sống kinh tế quốc tế, Việt

Nam có cơ hội thuận lợi tiếp nhận, chuyển giao và phát triển năng lực

khoa học và công nghệ để khai thác tiềm năng to lớn của nền nông

nghiệp nhiệt đới thông qua việc tiếp nhận công nghệ sản xuất và kỹ

năng quản lý tiên tiến; tham gia nhiều hơn vào các chương trình hợp tác



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

×