1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 3 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 157 trang )


100



3.1.1.1 Những cơ hội

Những cơ hội chủ yếu của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế

được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, do hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các hiệp định thương

mại song phương và đa phương, tham gia vào các định chế khu vực và

quốc tế, Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản.

Quá trình đó cũng tạo nên sức ép hữu hình thúc đẩy đổi mới lĩnh vực

sản xuất nông nghiệp, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ

tiên tiến để phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tài nguyên

sinh học đa dạng và nguồn nhân lực dồi dào của nước ta.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội thuận lợi cho Việt Nam

thu hút đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn. Điều này được lý

giải bởi Việt Nam là quốc gia có tiềm năng và lợi thế để phát triển nền

nông nghiệp có hiệu quả kinh kế cao; nhiều hàng nông sản xuất khẩu

của Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới; nông

nghiệp và nông thôn là khu vực luôn được Đảng và Chính phủ Việt

Nam khuyến khích đầu tư, do vậy nhận được sự ưu đãi đầu tư cao; và

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tính ổn định cao về môi trường

chính trị – xã hội là một trong những điểm mà người đầu tư đặc biệt

quan tâm. Có thể hy vọng rằng, với chính sách chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế, trong tương lai nông nghiệp và nông thôn Việt Nam sẽ trở

thành lĩnh vực hấp dẫn mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài.

Ba là, hội nhập sâu và rộng hơn vào đời sống kinh tế quốc tế, Việt

Nam có cơ hội thuận lợi tiếp nhận, chuyển giao và phát triển năng lực

khoa học và công nghệ để khai thác tiềm năng to lớn của nền nông

nghiệp nhiệt đới thông qua việc tiếp nhận công nghệ sản xuất và kỹ

năng quản lý tiên tiến; tham gia nhiều hơn vào các chương trình hợp tác



101



khoa học và công nghệ song phương và đa phương; tăng thêm các

nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi tham gia các định chế

kinh kế quốc tế với tư cách nước nghèo và kém phát triển.

3.1.1.2 Những thách thức

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra những thách thức không nhỏ

đối với Việt Nam như:

Một là, nền nông nghiệp Việt Nam về cơ bản chưa thoát khỏi tình

trạng qui mô nhỏ, phân tán và lạc hậu. Tình trạng này làm cản trở trực

tiếp việc thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp và

nông thôn, ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ.

Một nền nông nghiệp lạc hậu khó có thể tạo ra được nhiều mặt hàng có

năng lực cạnh tranh cao. Vấn đề này càng trở nên trầm trọng vì nông

nghiệp Việt Nam nói chung, nông sản xuất khẩu của Việt Nam nói

riêng đã, đang và sẽ còn phải cạnh tranh gay gắt hơn với các đối thủ

cạnh tranh khác - những nước có trình độ phát triển hơn Việt Nam không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường nội địa.

Hai là, nông nghiệp Việt Nam cho đến nay mới chủ yếu phát triển

theo bề rộng dựa trên khả năng tự nhiên, mức đầu tư khoa học và công

nghệ thấp, sức cạnh tranh của một số nông sản xuất khẩu còn thấp do

năng suất và chất lượng thấp, chi phí sản xuất cao, công nghệ sau thu

hoạch và công nghệ chế biến lạc hậu. Để nông sản Việt Nam có thể vào

được những thị trường rộng lớn của các nước phát triển thì những yếu

kém trên cần được khắc phục. Tuy nhiên đây là những công việc không

thể giải quyết xong trong một thời gian quá ngắn. Điều này có nghĩa là

trong tương lai gần (5 năm thậm chí 10 năm) nông sản xuất khẩu của

Việt Nam còn phải chịu nhiều sức ép rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh.



102



Ba là, cơ sở hạ tầng, dịch vụ, hệ thống pháp lý còn nhiều bất cập so

với yêu cầu hội nhập. Nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp rất

nhiều khó khăn trong việc vượt qua các rào cản kỹ thuật hết sức khắt

khe và tinh vi của các nước công nghiệp phát triển nhằm bảo hộ sản

xuất trong nước của họ (ví dụ, dư lượng thuốc kháng sinh trong hàng

thuỷ sản, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, điều kiện về vệ sinh và kiểm

dịch động, thực vật). Ngay việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước

ta cho phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế cũng đòi hỏi nhiều thời

gian và rất nhiều công sức, tiền của (đổi mới tư duy trong xây dựng và

hoàn thiện pháp luật là điều rất quan trọng, nhưng chúng ta đang còn

gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này, ví dụ, việc phát triển doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài, việc cho người nước ngoài mua cổ phần

tại các doanh nghiệp Việt Nam, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà

nước trong lĩnh vực nông nghiệp v.v...)

Bốn là, tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và quốc tế buộc

Việt Nam phải thực hiện những cam kết cụ thể đối với mỗi định chế về

nông nghiệp theo hướng: mở cửa thị trường hàng nông sản thông qua

việc thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế và cam kết thuế, coi thuế

là biện pháp duy nhất để bảo hộ sản xuất trong nước, thực hiện lịch

trình cắt giảm thuế nhập khẩu; làm minh bạch các loại trợ cấp của

Chính phủ đối với sản xuất nông nghiệp. Cắt giảm các loại trợ cấp làm

bóp méo thương mại nếu vượt quá mức cho phép, đồng thời khuyến

khích áp dụng các chính sách đầu tư phát triển không làm bóp méo

thương mại như nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn nhân lực, khuyến

nông, phát triển cơ sở hạ tầng v.v...Những việc này đòi hỏi phải đổi mới

tư duy một cách mạnh mẽ và phải đề ra và thực hiện được các giải pháp

hữu hiệu để vừa có thể phát triển được sản xuất trong nước, vừa không



103



bị coi là vi phạm các cam kết mà Việt Nam đã ký. Đây là thách thức

không hề nhỏ nhưng Việt Nam phải tìm cách vượt qua.

Do đó, nhận thức đúng những cơ hội và thách thức của Việt Nam

khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để từ đó tìm ra các giải pháp tận

dụng cơ hội và vượt qua thách thức sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh

tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam.

3.1.2 Một số quan điểm nâng cao năng lực cạnh tranh của nông

sản xuất khẩu

Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản

Việt Nam trong thời gian qua, phân tích những cơ hội và thách thức mà

nước ta phải đối mặt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chúng tôi

xin nêu ra một số quan điểm cần tuân thủ nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh của nông sản xuất khẩu của nước ta trong những năm tới như sau:

Thứ nhất, sản xuất, xuất khẩu nông sản phải xuất phát từ nhu cầu

thị trường, thị trường là căn cứ chủ yếu để xây dựng chiến lược kinh

doanh, đối với từng ngành hàng và cho từng sản phẩm.

Quan điểm này đòi hỏi phải làm tốt công tác nghiên cứu nhu cầu thị

trường và thị hiếu khách hàng, từ đó xác định thị trường trọng điểm,

dung lượng trao đổi và tính ổn định với những mặt hàng có khả năng

cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Quyết định lựa chọn và

định hướng qui hoạch sản xuất một cách đồng bộ từ khâu sản xuất, chế

biến đến khâu xuất khẩu phải căn cứ vào nhu cầu thị trường, tránh qui

hoạch sản xuất một cách chủ quan, duy ý chí dựa trên những cái ta sẵn

có, ta có thể sản xuất được.

Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu trên

cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng sản phẩm, tạo lợi thế

cạnh tranh, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần tăng



104



nhanh kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho

nông dân.

Quan điểm này đòi hỏi phải phân tích và tìm ra những nông sản có

ưu thế trong lĩnh vực sản xuất - xuất khẩu của từng vùng, từng địa

phương, trên cơ sở vận dụng lý thuyết về lợi thế so sánh để tìm ra những

sản phẩm xuất khẩu có hiệu quả cao, có chi phí và giá thành thấp so với

thế giới, tránh tình trạng vùng nào, địa phương nào cũng có cơ cấu nông

nghiệp na ná như nhau. Trên cơ sở đó xây dựng qui hoạch kế hoạch, phát

triển sản xuất, đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh cả về

chất lượng và chi phí.

Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu phải trên

cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật với công nghệ tiên tiến nhằm

nâng cao năng suất, giá trị sản phẩm xuất khẩu kết hợp với tổ chức tốt

quá trình cung ứng dịch vụ xuất khẩu.

Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình sản xuất - chế biến - tổ chức

xuất khẩu nông sản cần chú ý ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học

trong lĩnh vực tạo giống, áp dụng công nghệ canh tác tiên tiến đồng thời

đổi mới công nghệ và thiết bị công nghiệp chế biến, bảo quản nhằm nâng

cao chất lượng và đa dạng hoá các mặt hàng, hạn chế tổn thất sau thu

hoạch tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Quan điểm này

cũng đòi hỏi trong thời gian tới cần chú trọng đến chất lượng sản phẩm

hơn số lượng sản phẩm xuất khẩu, nói cách khác là cần chú trọng hơn

đến phần giá trị gia tăng mà Việt Nam có thể tạo ra.

Thứ tư, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu trên cơ sở

phát huy tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp sản xuất, xuất

khẩu, đồng thời cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, các cấp, các ngành có



105



liên quan, để tạo lập những ngành hàng có đủ năng lực cạnh tranh trên

thị trường thế giới.

Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực

cạnh tranh của nông sản xuất khẩu, phải xuất phát từ động lực trực tiếp

của người kinh doanh. Nếu người kinh doanh không có động lực, bị "trói

chân, trói tay" hay quá ỷ lại vào sự bảo hộ, che chở của Nhà nước thì

năng lực cạnh tranh của người kinh doanh cũng khó được nâng cao.

Mặt khác, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản xuất

khẩu cũng phụ thuộc vào sự tác động từ phía các cơ quan quản lý vĩ mô

thông qua hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích của Nhà nước trong

lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu nông sản, nhằm nâng cao lợi thế cạnh

tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.

3.2 TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VÀ NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG

ĐẨYMẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005-2010



3.2.1 Triển vọng xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2005-2010

Xuất khẩu nông sản của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào năng lực

sản xuất trong nước cũng như diễn biến thị trường giá cả nông sản thế

giới. Năm 2005, sản xuất lúa gạo thế giới giảm do hạn hán kéo dài ở các

nước châu Á làm giảm sản lượng thu hoạch. Theo FAO, năm 2005 mậu

dịch gạo thế giới chỉ đạt 26,1 triệu tấn, giảm 6% so với năm 2004 do

xuất khẩu gạo của Thái Lan giảm xuống còn 7-8 triệu tấn, Việt Nam

cũng giảm khối lượng xuất khẩu khoảng 0,2 triệu tấn so năm 2004.

Trung Quốc, Inđônêxia, Philipin, Băngladesh và một số nước khác có

thể phải tăng nhập khẩu gạo. Do cung khan hiếm nên giá xuất khẩu năm

2005 có thể vẫn giữ ở mức cao. Dự báo, lượng gạo xuất khẩu của thế

giới tăng bình quân 2%/năm trong giai đoạn từ 2005-2010, trong đó xuất

khẩu gạo của Việt Nam khoảng 3,5-4,2 triệu tấn/năm [49].



106



Sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2004/2005 có thể đạt 119 triệu

bao (1bao =60kg) tăng 9% so với niên vụ trước, trong đó sản lượng cà

phê của Việt Nam đạt 14,2 triệu bao, tăng 2,2 triệu bao so với niên vụ

2003/2004. Xuất khẩu cà phê thế giới niên vụ 2004/2005 dự báo đạt 86,2

triệu bao, giảm 2% so với niên vụ trước. Do xuất khẩu giảm nên giá cà

phê thế giới năm 2005 có thể vẫn ổn định ở mức 880-900 USD/tấn đối

với loại robusta và 2500-2650 USD/tấn đối với loại cà phê arbica.

Dự báo xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 2005-2010 dao

động từ 750-800 ngàn tấn/năm. Tương tự những mặt hàng nông sản xuất

khẩu khác của Việt Nam trong giai đoạn này cũng tăng mạnh, chẳng hạn

xuất khẩu chè năm 2005 khoảng 80 ngàn tấn và đến năm 2010 sẽ đạt 120

ngàn tấn, xuất khẩu cao su đến 2010 khoảng 420 ngàn tấn, hạt điều năm

2005 xuất khẩu khoảng 100 ngàn tấn, đến năm 2010 đạt khoảng 170

ngàn tấn và xuất khẩu rau quả sẽ đạt khoảng 450 triệu USD vào năm

2010. [49,50]

Nhu cầu tiêu dùng đối với hàng nông sản giai đoạn 2005 - 2010

cũng thay đổi đáng kể theo hướng tăng sử dụng những loại nông sản có

chất lượng cao, nông sản sạch, nông sản hữu cơ. Vì thế, các nước sản

xuất và xuất khẩu nông sản coi cải thiện chất lượng nông sản là chìa

khoá để thâm nhập thị trường thế giới.

Như vậy xuất khẩu nông sản của Việt Nam, nhất là xuất khẩu một

số mặt hàng chủ lực (gạo, cà phê, điều, chè, cao su, rau quả...) trong

những năm tới có nhiều triển vọng. Vấn đề là để chiến thắng trong cạnh

tranh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu nông sản, chúng ta cần đề ra

phương hướng sản xuất, xuất khẩu phù hợp trên cơ sở nghiên cứu tốt

diễn biến cung cầu và giá cả nông sản thế giới và có các giải pháp khả



107



thi vừa phù hợp với điều kiện của nước ta, vừa đáp ứng được những biến

động, nhất là những biến động về giá trên thị trường thế giới.

3.2.2 Phƣơng hƣớng đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam

Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và phù hợp với các quan điểm nêu

trên, trong giai đoạn 2005-2010 cần thực hiện tốt một số phương hướng

sau đây:

Một là, Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản theo hướng đa dạng hoá thị

trường và đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng kim nghạch và

phòng ngừa rủi ro do những biến động thị trường nông sản thế giới.

Thị trường ASEAN sẽ ngày càng hạn chế đối với các nông sản xuất

khẩu của Việt Nam. Một là, do đặc trưng cơ bản về nông sản của các

nước ASEAN tương tự nhau do đó hoàn toàn có khả năng thay thế. Hai

là, hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước

này không có tác động làm tăng khối lượng xuất khẩu nông sản của Việt

Nam trong tương lai.

Thị trường các nước châu Á khác có tiềm năng mở rộng mậu dịch

hàng nông sản là các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và

Đài Loan. Tuy nhiên, một số thị trường trong số này (các thị trường

Hồng Kông, Đài Loan) là thị trường tái xuất và thường thiếu tính ổn

định. Do vậy cần tập trung khai thác thị trường Trung Quốc và thị trường

Nhật Bản, đặc biệt là thị trường Trung Quốc do trong thời gian tới Trung

quốc có khả năng phải nhập khẩu nhiều gạo và các loại nông sản khác.

Thị trường SNG và Đông Âu là khu vực xuất khẩu nông sản truyền

thống của Việt Nam và được xem là thị trường "dễ tính" nhất đối với

nông sản xuất khẩu của Việt Nam do không đòi hỏi quá khắt khe về chất

lượng sản phẩm và là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển. Trong

thời gian tới Việt Nam cần đẩy mạnh việc xuất khẩu nông sản vào thị



108



trường này. Tuy vậy chi phí vận chuyển nông sản xuất khẩu sang thị

trường này là khá cao, vì vậy cần phải có biện pháp hạ giá thành sản

phẩm thì mới có thể cạnh tranh được.

Thị trường châu Phi, yêu cầu về chất lượng không cao nhưng sức

mua hạn chế do không có khả năng thanh toán, và chỉ dừng lại ở hàng

ngũ cốc. Vì vậy, Việt Nam nên tranh thủ đẩy mạnh xuất khẩu gạo chất

lượng vừa phải với giá không quá cao vào thị trường này dưới dạng hàng

đổi hàng.

Triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt nam vào thị

trường Mỹ rất lớn, yêu cầu về chất lượng cũng đa dạng gồm cả chất

lượng cao và chất lượng trung bình phù hợp với nông sản xuất khẩu của

Việt Nam. Kể từ khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, xuất

khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường này tăng nhanh chóng. Tuy

nhiên, xuất khẩu vào thị trường này chúng ta cũng vấp phải những rào

cản lớn như vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa, tôm nhằm ngăn

cản sự thâm nhập của hàng nước ngoài và bảo hộ sản xuất nội địa của

Mỹ. Để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này ngoài những yêu cầu về

chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng còn phải đặc biệt quan tâm đến

luật pháp và những qui định về thương mại của Mỹ.

Thị trường EU được coi là thị trường "khó tính" nhất về chất lượng

hàng nông sản nhập khẩu, với cơ chế bảo hộ nông nghiệp rất chặt chẽ và

mức độ bảo hộ cao, song đây vẫn là thị trường tiềm năng lớn đối với

nhóm hàng nông sản nhiệt đới của Việt Nam trong thời gian tới như cà

phê, cao su tự nhiên, hạt tiêu, hạt điều và các loại hoa quả. Tuy nhiên, để

mở rộng được thị phần xuất khẩu nông sản vào thị trường EU đòi hỏi

Việt Nam phải nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng

hoá mặt hàng trên cơ sở đẩy mạnh việc ứng dụng những tiến bộ khoa



109



học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất nông sản

sạch.

Hai là, cần xác định rõ các đối thủ cạnh tranh trong thời gian tới

để tìm giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu

Việt Nam trên thị trường thế giới.

Hiện nay trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản vào thị trường Mỹ và

châu Âu, Thái Lan và Trung Quốc có rất nhiều kinh nghiệm, họ bỏ nhiều

công sức để nghiên cứu nhu cầu, sở thích và tập quán tiêu dùng của các

thị trường này để điều chỉnh việc sản xuất và xuất khẩu. Ví dụ, để mở

rộng thị phần xuất khẩu chè sang EU, Trung Quốc nghiên cứu rất kỹ nhu

cầu tiêu dùng chè sạch của thị trường này, từ đó chuyển hướng sang sản

xuất chè hữu cơ. Mặc dù giá xuất khẩu cao hơn rất nhiều so với loại chè

bình thường nhưng vẫn được người tiêu dùng EU ưa chuộng. Hiện tại

hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU đang bị sức ép rất mạnh

của hàng Thái Lan và Ấn Độ về sản phẩm gạo, Indônêxia và Braxin về

sản phẩm cà phê, Trung Quốc về sản phẩm chè. Phần lớn hàng của các

đối thủ cạnh tranh có ưu thế hơn hàng nông sản của Việt Nam về chất

lượng, tính đa dạng của sản phẩm, và nguồn cung cấp ổn định.

Vì vậy, việc xác định đối thủ cạnh tranh đối với từng loại mặt hàng

ở từng khu vực thị trường giúp chúng ta xây dựng chiến lược lâu dài

trong phát triển sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản nhằm nâng cao

sức cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng nông sản Việt

Nam.

Ba là, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu Việt

Nam trên cơ sở khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng tham gia.

Hiện tại, sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam

so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới chưa cao một phần



110



do chúng ta thiếu kinh nghiệm trong buôn bán và xúc tiến thương mại,

thiếu vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và xuất

khẩu nông sản, cũng như đầu tư cho công tác nghiên cứu và ứng dụng

khoa học công nghệ vào sản xuất và chế biến nông sản, phần khác do

chúng ta đang còn có những sự phân biệt đối xử nhất định giữa các thành

phần kinh tế, do vậy chưa thu hút hết được năng lực của các thành phần

kinh tế vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản. Vì vậy, để nông

sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng củng cố được vị thế của mình

trên thị trường quốc tế, đòi hỏi Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý cả

về chính sách, cơ chế quản lý và thủ tục hành chính thông thoáng có sức

hấp dẫn thu hút mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia

vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản.

Huy động được các lực lượng kinh tế cùng tham gia vào việc nâng

cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu là chúng ta tạo ra

được sức mạnh tổng hợp để vượt qua những thách thức khi Việt Nam

tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

Để thực hiện được những phương hướng trên cũng như chiến lược

phát triển nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là

tăng khối lượng hàng hoá và kim ngạch xuất khẩu nông sản đến năm

2010 đạt 8,5 - 9,0 tỷ USD và nâng cao vị thế của nền Nông nghiệp Việt

Nam trong khu vực và thế giới đòi hỏi phải thực thi đồng bộ các giải

pháp và chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông

sản xuất khẩu Việt Nam.

3.3 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH

TRANH CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM



Hiện nay khi hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng và

là xu thế tất yếu, để đẩy nhanh được quá trình hội nhập kinh tế quốc tế



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

×