Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 157 trang )
31
Trung Quốc là nước có đất tự nhiên rộng, người đông, nhưng đất
canh tác so với diện tích tự nhiên nhỏ (10,8%), đất canh tác bình quân
đầu người rất thấp (0,11 ha/người). Tuy vậy, nông nghiệp của Trung
Quốc trong những thập kỷ gần đây đã đạt được những thành tựu rất to
lớn. Hiện nay, Trung Quốc là nước có sản lượng nông sản lớn so với
châu Á và thế giới. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở lại đây, xuất khẩu
nông sản của Trung Quốc không ngừng gia tăng với tốc độ nhanh và
ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Năm 1998, Trung
quốc xuất khẩu được trên 2 triệu tấn gạo. Năm 2000, kim nghạch xuất
khẩu nông sản của Trung Quốc đạt trị giá 13,54 tỷ USD. Chỉ tính riêng
xuất khẩu rau các loại cũng đạt 1,19 tỷ USD. [9, tr.88]. Năm 2002, lượng
rau xuất khẩu đạt 3,146 triệu tấn với trị giá 2,034 tỷ USD.
Sở dĩ năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Trung
Quốc ngày càng tăng là do Chính phủ Trung Quốc thực hiện việc đầu tư
có hiệu quả và áp dụng hàng loạt các chính sách trên lĩnh vực nông
nghiệp như:
(1). Giải quyết tốt vấn đề ruộng đất - một vấn đề hết sức nhạy cảm
đối với nông dân. Trong đó, khuyến kích phát triển kinh tế hộ nông dân
với các mô hình phong phú dựa trên quyền tự chủ sản xuất của nông hộ.
Chính điều này đã tạo động lực phát triển vượt bậc cho nông nghiệp
Trung Quốc.
(2). Điều chỉnh các hình thức tổ chức sản xuất như hình thành các
tổ chức dịch vụ phục vụ nông nghiệp như hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã
mua bán, công ty cổ phẩn làm dịch vụ cung cấp vật tư, kỹ thuật cho nông
dân.
(3). Thực hiện tốt chính sách công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Mặc dù dân số đông, nhưng Trung Quốc vẫn đẩy
32
mạnh cơ giới hoá nông nghiệp và coi đó là chiến lược phát triển nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá với khẩu hiệu: “ly nông, bất ly
hương”. Trung Quốc đã xây dựng hàng loạt khu công nghiệp mới ở các
vùng nông thôn như công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản
xuất vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ để thu hút lao động nông nghiệp.
(4). Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi các giống lai, góp
phần đưa sản lượng nông nghiệp tăng nhanh và giảm giá thành sản
phẩm.
(5). Huy động mọi nguồn lực để phát triển cơ sở hạ tầng cho nông
nghiệp, nông thôn bằng các chiến dịch xây dựng thuỷ lợi, giao thông
nông thôn nhằm phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp và lưu thông hàng
hoá. Nguồn vốn để thực hiện việc này được huy động một phần từ ngân
sách nhà nước, phần còn lại huy động từ sự đóng góp của ngưòi dân.
(6). Áp dụng chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp theo
hướng xuất khẩu. Trung Quốc đã tập trung đầu tư sản xuất các sản phẩm
có thế mạnh như ngũ cốc, cây chè, chăn nuôi đại gia súc và chăn nuôi
lợn, tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Đặc
biệt chính phủ đã có chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng đối với những
sản phẩm có hàm lượng chất xám cao như các loại giống lai (lúa lai, ngô
lai).
(7). Thực hiện các chính sách ưu tiên cho xuất khẩu nông sản như
chính sách hạ thấp thuế xuất khẩu, đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu,
kể cả hình thức xuất khẩu phi mậu dịch.
(8). Tiến hành hàng loạt biện pháp cải cánh mở cửa thị trường,
giảm dần các rào cản thương mại, giảm các loại hỗ trợ và trợ cấp ảnh
hưởng tới cạnh tranh bình đẳng, làm cho luật lệ minh bạch và dễ dự đoán
33
hơn, điều chỉnh các luật lệ quốc gia cho phù hợp với thông lệ WTO. Quá
trình này vẫn tiếp diễn sau khi Trung Quốc gia nhập WTO theo lộ trình
đã cam kết.
(9). Tiến hành tái cơ cấu về mặt chiến lược đối với ngành nông
nghiệp nhằm đối phó với hiện trạng giá nông sản sụt giảm ảnh hưởng
tiêu cực đến thu nhập của nông dân, đồng thời phát huy hết tiềm năng để
tận dụng các lợi thế về tiếp cận thị trường sau khi gia nhập WTO và
giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với nông nghiệp nông thôn. Trung
Quốc cũng xem xét đánh giá các hạn chế cả về nguồn lực lẫn hạn chế
trong việc tăng cầu nông sản để thông qua đó điều tiết thị trường nhiều
hơn nữa và coi đây là giải pháp quan trọng để hướng sản xuất ngày càng
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trưòng. Tuy nhiên, các nhà hoạch định
chính sách Trung Quốc cũng nhận định rằng giảm giá nông sản luôn gắn
liền với chu kỳ kinh tế cả ở trong nước và quốc tế. Do đó, để giành thế
chủ động Trung Quốc phải cải thiện tình hình kinh tế trong nước và hội
nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới nhằm tạo ra thị trường rộng lớn
hơn cho nông sản.
Quá trình tái cơ cấu lại nông nghiệp và nông thôn được tiến hành
từ cuối kế hoạch năm năm lần thứ chín gồm năm định hướng chính:
(i) Tích cực chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm tạo giá trị
gia tăng cao hơn;
(ii) Đẩy mạnh chế biến nông sản, đồng thời khuyến khích tiêu dùng
các sản phẩm chất lượng cao;
(iii) Phát huy lợi thế cạnh tranh tương đối trong nông nghiệp ở từng
địa phương, tiến tới tạo ra cơ cấu nông nghiệp theo vùng hợp lý để tăng
khả năng cạnh tranh của hàng nông sản và thúc đẩy nông nghiệp Trung
Quốc phát triển;
34
(iv) Tiếp tục hỗ trợ phát triển doanh nghiệp hương trấn, đồng thời
thúc đẩy thành thị hoá nông thôn nhằm chuyển dịch lao động ra khỏi khu
vực nông nghiệp tạo thu nhập cao hơn cho người dân;
(v) Thúc đẩy việc xây dựng môi trường sinh thái và phát triển bền
vững ở các khu rừng đầu nguồn, vùng đất khô cằn cỗi.
1.4.2 Kinh nghiệm của Đài Loan
Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá ở Đài Loan, nông nghiệp vẫn
còn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thu nhập quốc dân. Để đẩy mạnh
xuất khẩu nông sản, Đài Loan tập trung phát triển công nghiệp chế biến
thực phẩm đặc biệt là ngành thực phẩm dự trữ và đóng hộp.
Kinh nghiệm năng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu
của đài Loan thể hiện ở những điểm sau:
(1). Đài Loan rất quan tâm đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
Vào cuối những năm 50, xuất khẩu chủ yếu của ngành chế biến thực
phẩm Đài Loan là thực phẩm đồ hộp gồm dứa hộp, nước uống hộp, thịt
hộp với giá trị xuất khẩu chiếm tới 90% toàn ngành. Để đảm bảo uy tín
cho ngành công nghệ chế biến đồ hộp, tránh tình trạng hỗn loạn trong
sản xuất và xuất khẩu, Chính phủ Đài Loan đã đặt ra những tiêu chuẩn
chất lượng đối với các cơ sở đóng hộp và các sản phẩm nông sản đóng
hộp xuất khẩu. Hiện nay, ngành chế biến thực phẩm đồ hộp phát triển rất
mạnh với một hệ thống và mạng lưới hữu hiệu, công nghệ chế biến tiên
tiến đáp ứng tốt các yêu cầu nhập khẩu của các thị trưòng khó tính trên
thế giới.
Để nâng cao được chất lượng đồ hộp, Chính phủ đài Loan đặc biệt
quan tâm đến chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến. Trước đây, ở Đài
Loan cây dứa thường được trồng xen trong các vườn cây ăn quả như một
thứ cây trồng phụ, do vậy chất lượng quả rất kém và hay bị sâu bệnh. Để
35
giữ uy tín cho sản phẩm dứa đóng hộp xuất khẩu, Chính phủ đã có chính
sách hỗ trợ người sản xuất thông qua việc trợ giúp kỹ thuật trồng trọt và
chăm bón, trợ giúp về vốn, khuyến khích trồng chuyên canh, thâm canh
dứa với những qui trình kỹ thuật cẩn thận được sự quản lý giám sát của
các cơ quan chuyên môn. Ngoài ra, Chính phủ còn trợ giá cho những
nông trường dứa lớn, thưởng những người trồng dứa có chất lượng cao.
Để khắc phục tình trạng các nhà máy đóng hộp cạnh tranh trong
việc mua nguyên liệu có thể làm cho có một số quả không đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu lọt vào hộp làm giảm chất lượng của sản phẩm chế biến,
Chính phủ đã giao hạn ngạch sản xuất cho các nhà máy dựa trên ước tính
về thu hoạch quả và số liệu xuất khẩu của các nhà máy đóng hộp đó. Chỉ
có những nhà máy nào có cơ sở cung cấp nguyên liệu của chính mình
mới được tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Để quản lý chất lượng sản phẩm, Chính phủ ban hành lệnh nâng
tiêu chuẩn của các nhà máy chế biến. Theo đó, tất cả các nhà máy đồ hộp
phải thoả mãn một hệ tiêu chuẩn qui định mới được tham gia xuất khẩu.
(2). Thiết lập hệ thông thu mua nguyên liệu thông suốt từ vùng
trồng nguyên liệu đến các cơ sỏ chế biến để đối phó với tình trạng khan
hiếm nguyên liệu vào thời điểm giáp vụ dễ gây ra tình trạng đầu cơ tích
trữ hàng. Các công ty (cà phê, cao su, hoa quả) của Đài Loan đã thành
lập “Văn phòng nông trại trung tâm”. Văn phòng này có nhiệm vụ theo
dõi và báo cáo về tình hình mùa màng. Hệ thống này đã chứng minh
được tính hiệu quả trong việc thu mua nguyên liệu và sự nhạy cảm trong
giải quyết các biến động của sản xuất và thị trường.
(3). Thành lập các “Hiệp hội ngành” để thực hiện việc ký kết hợp
đồng thu mua nguyên liệu giữa các nhà máy đóng hộp xuất khẩu và các
cơ sở phân phối nguyên liệu nhằm khắc phục hiện tượng các nhà mua
36
nguyên liệu trung gian vì mục tiêu kiếm lời nên mua “non” ngay cả khi
hoa quả (dứa) còn xanh hoặc mới khi vào mùa, gây ảnh hưởng tới chất
lượng và giá cả sản phẩm. Tổ chức này hoạt động trên nguyên tắc không
lợi nhuận mà chủ yếu đóng góp cho công nghiệp thực phẩm.
(4). Chính phủ cũng như các công ty kinh doanh rất chú trọng đến
công tác nghiên cứu khoa học. Các kết quả nghiên cứu được phổ biến
cho các nhà sản xuất, công chúng qua các tạp chí cũng như các cuộc
trình diễn thực nghiệm.
Kinh nghiệm thành công trong ngành chế biến cho thấy Chính phủ
có vai trò rất quan trọng trong phát triển công nghiệp. Chính phủ ban
hành những luật lệ cơ bản, tiêu chuẩn kỹ thuật, những yêu cầu cần thiết
về xuất khẩu... nhằm giúp các nhà sản xuất đi đúng hướng. Sự hỗ trợ của
Chính phủ còn thể hiện ở việc đầu tư cho những nghiên cứu cơ bản
nhằm tạo dựng lợi thế cạnh tranh lâu dài. Hiện nay Đài Loan có nền kinh
tế nông nghiệp tương đối phát triển ở khu vực châu Á.
1.4.3 Kinh nghiệm của Malaysia
Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu,
Chính phủ Malaysia đã thực hiện những vấn đề sau:
(1). Tập trung nguồn lực vào việc sản xuất những mặt hàng có lợi
thế cạnh tranh cao. Chẳng hạn, Malaysia có thế mạnh và tiềm năng về
sản xuất chế biến cao su, chính vì vậy Chính phủ đưa ra nhiều chương
trình hỗ trợ cho phát triển ngành cao su như: hỗ trợ tài chính, công nghệ,
kỹ thuật. Các vườn cây cao su được tổ chức theo nhóm có thể được trợ
giúp dưới hình thức tín dụng, cung ứng các yếu tố đầu vào và các điều
kiện tiếp thị.
(2). Xây dựng mối liên kết giữa khu vực nhà nước và tư nhân như
thành lập Hội đồng ngành cây cao su. Thành viên của Hội đồng gồm đại
37
diện của các Bộ, Cục, các công ty, các trường đại học và các đơn vị tư
nhân có liên quan tới sự phát triển của ngành cao su, tạo nên liên kết có
trách nhiệm trong sản xuất - nghiên cứu và xuất khẩu.
(3). Thực hiện những chính sách khuyến khích về tài chính nhằm
phát triển việc trồng, chế biến, xuất khẩu các loại nông sản có lợi thế trên
qui mô lớn. Các doanh nghiệp (bao gồm các hợp tác xã, các tổ hợp nông
nghiệp, các nông hội, các công ty cổ phần) muốn tham gia vào việc trồng
cây để bán đều có quyền được hưởng các khuyến khích về thuế (ví dụ,
các đơn vị mới tham gia kinh doanh được khuyến khích miễn giảm thuế
trong 5 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện).
Để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ đã đưa ra những khuyến khích
trợ giúp xuất khẩu như: trợ giúp phí tổn khi xúc tiến xuất khẩu nông sản;
trợ giúp các nhà xuất khẩu thâm nhập vào các thị trường mới; trợ giúp
trong việc xây dựng các kho chứa, bảo quản; và trợ giúp tín dụng để đổi
mới công nghệ. Đối với lĩnh vực chế biến áp dụng những hình thức
khuyến khích như sự giảm thuế trong 5 năm đầu, kể từ ngày bắt đầu sản
xuất cho các công ty chế biến nông sản mới thành lập.
Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản chế biến được hưởng chính
sách trợ cấp xuất khẩu, được cấp vốn tín dụng xuất khẩu, cung cấp các
khoản tín dụng với lãi suất ưu đãi giúp cho doanh nghiệp có thể cạnh
tranh tốt hơn trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, Chính phủ còn miễn thuế
nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiệp chế biến xuất
khẩu. Chính những chính sách trợ giúp đó đã tạo cho ngành nông nghiệp
và chế biến nông sản Malaixia phát triển nhanh, có điều kiện đổi mới
công nghệ cũng như tiếp thị mở rộng thị trường.
1.4.4 Kinh nghiệm của Thái Lan
38
Thái Lan là một quốc gia nằm trong khu vực Đông nam Á, có diện
tích canh tác 19,62 tr. ha [28], gấp 2,62 lần Việt Nam. Trong khi đó dân
số có 58,5 triệu người, bình quân đất canh tác trên đầu người gấp 4 lần
so với Việt Nam. Cách đây 25 năm Thái Lan là một nước nông nghiệp
lạc hậu, nhưng hiện nay đã vươn lên thành một nước đứng đầu về xuất
khẩu lúa gạo và thuỷ sản trên thị trường thế giới.
Để khai thác lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, từ những năm 80
của thế kỷ XX, Chính phủ Thái Lan đã đề ra chính sách phát triển kinh tế
với nội dung chủ yếu "Coi nông nghiệp, nông thôn là xương sống của
đất nước". Để thực thi chính sách này, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng
những biện pháp đặc biệt nhằm giải quyết tình hình tụt hậu của đất nước.
Chính phủ khuyến khích thực hiện chiến lược công nghiệp hoá nông
nghiệp, nông thôn, thực hiện chủ trương đa dạng hoá nền kinh tế hướng
vào sản xuất sản phẩm cho xuất khẩu. Chỉ sau 25 năm (từ năm19701995), GDP nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế của Thái Lan giảm tới
gần 50%, cơ cấu ngành công nghiệp chế biến tăng nhanh từ 14% lên
26,3% GDP cả nước. Ở Thái Lan đã hình thành nhiều khu công nghiệp
chế biến nông sản được trang bị hiện đại nhằm gia tăng giá trị cho nông
sản. Như vậy, vừa khuyến khích nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vừa nâng cao được giá trị nông sản, hàng hoá có sức cạnh tranh cao trên
thị trường thế giới. Do đó, tiềm năng trong nông nghiệp được khai thác
và phát huy triệt để, sản xuất phát triển nhanh chóng. Kết quả là, từ
những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, Thái Lan đã là một nước
xuất khẩu gạo, sắn, cao su, mía đường thuộc vào những nước hàng đầu
thế giới. Hiện nay, nông sản Thái Lan đã có uy tín và được tiêu thụ trên
100 quốc gia ở khắp các châu lục, đặc biệt là có sức cạnh tranh cao tại
các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật bản. Đạt được những thành
39
công đó chính là nhờ Thái Lan đã áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp để
nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu.
Kinh nghiêm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất
khẩu của Thái Lan là:
(1). Thái Lan rất chú trọng đến việc nghiên cứu và áp công nghệ
sinh học, khoa học kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông sản xuất khẩu
nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu để đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của các thị trường nhập khẩu. Ví dụ, Thái Lan đã thực
hiện chương trình cấp quốc gia về thay thế các vườn cây cao su già cỗi
cho năng suất thấp bằng giống cây cao su lai cho sản lượng cao hơn gấp
5-6 lần. Nhờ đó Thái Lan vươn lên thành nước xuất khẩu cao su thiên
nhiên lớn nhất thế giới.
Thái Lan là nước có tiềm năng sản xuất lúa tương đương với Việt
Nam, song kim ngạch xuất khẩu gạo của Thái Lan vượt xa so với nước
ta (kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ bằng 50-60% kim ngạch
xuất khẩu gạo của Thái Lan). Một trong những nguyên nhân dẫn tới
thành công trong lĩnh vực xuất khẩu gạo là Thái Lan đã chú trọng đầu tư
cho công tác nghiên cứu cải tiến và nâng cấp giống gạo Jasmine (hương
nhài) lên thành gạo đặc sản hạt dài có hương thơm tự nhiên, lượng
protein cao. Chính vì thế mà gạo xuất khẩu của Thái Lan có giá rất cao.
Ví dụ, trong năm 2003, gạo hương nhài của Thái Lan luôn bán được giá
cao kỷ lục khoảng 560-565 USD/tấn, giao hàng theo điều kiện FOB.
Thái Lan còn đang phấn đấu năm 2005 đưa tỷ lệ gạo Jasmine lên 50%
trong tổng lượng gạo xuất khẩu [48,tr.10]. Bên cạnh đó, Thái Lan luôn
quan tâm giữ vững chất lượng của giống gạo Khao Đawk Mali đã có
thương hiệu hàng hoá trên 50 năm nhằm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của
những thị trường cao cấp.
40
(2). Chính phủ Thái Lan chú trọng vào việc nâng cao chất lượng
sản phẩm đáp ứng triệt để các qui định đối với nông sản nhập khẩu vào
từng thị trường nhập khẩu. Ví dụ, khi EU đưa ra tiêu chuẩn về lượng hoá
chất đối với nông sản xuất khẩu của Thái Lan vào EU, ngay lập tức Bộ
Nông nghiệp và hợp tác xã Thái Lan đã tiến hành làm mọi thủ tục để Hội
đồng châu Âu thấy rõ chiến lược hiện tại và những kế hoạch trong tương
lai của mình nhằm đáp ứng yêu cầu của EU. Ngoài ra, Thái Lan còn đề
nghị EU hợp tác để thực hiện tiêu chuẩn duy nhất kiểm định hàng nhập
từ Thái Lan, đồng thời giúp đỡ Thái Lan phát triển công nghệ sinh học
và những kiến thức về sản phẩm hữu cơ.
Thái Lan đặc biệt quan tâm đầu tư trang thiết bị dây chuyền công
nghệ chế biến tiên tiến, đảm bảo điều kiện vận tải thuận tiện, nhanh
chóng, kỹ thuật đóng gói hiện đại thoả mãn được các yêu cầu về tiêu
chuẩn chất lượng của EU, Mỹ, Nhật.
(3). Thái Lan rất chú trọng tới việc nghiên cứu thị trường cũng như
nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của các nước nhập khẩu sản phẩm của họ để
từ đó có chiến lược điều chỉnh sản xuất sao cho ngày càng đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng.
(4). Chính phủ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu nông sản thông qua
các biện pháp quản lý vĩ mô. Mặc dù Chính phủ đã có chủ trương thực
hiện cơ chế thị trường đối với mọi loại sản phẩm hàng hoá, song vẫn chú
trọng đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp thông qua việc giữ ổn định giá vật
tư cho sản xuất nông nghiệp, cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp. Ví dụ,
năm 1990, chính phủ cho nông dân vay 1,3 tỷ USD để phát triển sản
xuất. Chính phủ Thái Lan còn áp dụng biện pháp can thiệp thị trường,
trợ giá cho nông sản xuất khẩu khi giá nông sản xuống thấp nhằm ổn
định thu nhập cho người sản xuất. Năm 2001, giá cao su xuất khẩu giảm
41
mạnh, ngoài việc tham gia vào chương trình dự trữ cao su, Chính phủ
Thái lan còn thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng đỡ giá. Cuối năm
2002, Chính phủ đã cấp 3,4 tỷ Baht hỗ trợ chương trình hạn chế bán cao
su tồn kho và nâng giá sàn đối với loại cao su hun khói lên 30 Baht/kg.
Ngoài ra, để khuyến khích xuất khẩu nông sản, Chính Phủ Thái Lan
còn thực hiện một số biện pháp như bỏ chế độ hạn ngạch (quota), không
thu thuế xuất khẩu, tạo tín dụng thuận tiện và cho vay với lãi suất ưu đãi
đối với các nhà kinh doanh xuất khẩu nông sản. Khi cần thiết, Chính Phủ
Thái Lan còn hỗ trợ việc xuất khẩu, can thiệp để ký những hợp đồng
xuất khẩu với số lượng lớn. Với những chính sách và biện pháp đồng bộ
nêu trên, nông sản xuất khẩu của Thái Lan chẳng những duy trì mà còn
nâng cao được năng lực cạnh tranh và vị thế trên thị quốc tế. [31, tr.23]
Những vấn đề nêu trên, cho thấy vai trò của chính sách rất quan
trọng đối với việc tạo lập những ngành hàng và sản phẩm mũi nhọn để
tăng sức cạnh tranh trên thương trường.
1.4.5 Kinh nghiệm của Mỹ
Nước Mỹ là nước có nhiều tiềm năng và thuận lợi về sản xuất nông
nghiệp, như Mỹ có điều kiện thiên nhiên ưu đãi, khí hậu ôn hoà, đất đai
rộng, phì nhiêu với khoảng 75 -90% diện tích có điều kiện canh tác thích
hợp là những lợi thế vô cùng quan trọng. Mỹ đã tận dụng được những lợi
thế đó tổ chức khai thác sử dụng và phát huy nó một cách có hiệu quả
cao nhất nhằm không ngừng nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản
xuất khẩu của mình. Mỹ đã căn cứ vào điều kiện tự nhiên (ruộng đất,
tổng lượng nhiệt, lượng mưa...), các yếu tố kỹ thuật và các yếu tố kinh tế
(gần thị trường tiêu thụ, có nguồn nhân lực với trình độ cao, mạng lưới
vận tải, công nghiệp chế biến tiên tiến) để bố trí sản xuất các loại cây
trồng, vật nuôi có lợi thế. Ví dụ, điều kiện tự nhiên của Mỹ rất thuận lợi