1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 107 trang )


lựa chọn. Như vậy, có thể nói khía cạnh thứ nhất hàm ý những vấn đề liên

quan đến bản năng sinh học của con người đối với quá trình sinh sản; khía

cạnh thứ hai đề cập đến quyền được quyết định của con người đối với quá

trình đó.

Nội dung chính của sức khỏe sinh sản bao gồm các yếu tố

sau:[33,tr.9.10].

1. Làm mẹ an toàn; 2. Kế hoạch hóa gia đình; 3. Nạo hút thai; 4. Bệnh

nhiễm khuẩn đường sinh sản; 5. Các bệnh lây qua đường tình dục; 6. Giáo

dục tình dục; 7. Phát hiện sớm ung thư vú và đường sinh sản; 8.Vô sinh; 9.

Sức khỏe vị thành niên; 10. Giáo dục, truyền thông về sức khỏe sinh sản- kế

hoạch hóa gia đình

Như vậy, sức khỏe sinh sản chỉ là một thành tố trong sức khỏe của

con người, song vai trò của nó rất quan trọng, nó không chỉ tác động tới thế

hệ hiện tại mà tác động cả tới thế hệ tương lai. Các vấn đề về sức khỏe sinh

sản trở nên rất quan trọng đối với người phụ nữ, vì người phụ nữ có vai trò

rất quan trọng trong việc tái sản xuất xã hội. Cho nên, những kiến thức về

sức khỏe sinh sản không những ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân họ mà còn

ảnh hưởng tới gia đình và cuộc sống tương lai.

1.1.4. Chăm sóc sức khỏe sinh sản.

Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tổng thể các biện pháp, kỹ thuật và

dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng ngừa

và giải quyết những vấn đề về sức khỏe sinh sản. nó bao gồm : sức khỏe

tình dục với mục đích đề cao cuộc sống và các mối quan hệ riêng tư, tư

vấn, chăm sóc liên quan đến vấn đề sinh sản và các bệnh lây truyền qua

đường tình dục [1].

Những vấn đề chung áp dụng chuẩn quốc gia về dịch vụ chăm sóc

sức khỏe sinh sản của Bộ Y tế:



24



- Đảm bảo sự chấp nhận của hai bên cung và cầu các tiêu chuẩn quốc gia về

chăm sóc sức khỏe sinh sản.

- Thực hiện tốt mối quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ và cộng đồng ở

các tuyến (Xã, Huyện, Tỉnh, Trung ương).

- Đảm bảo đúng về mặt nguyên tắc, yêu cầu, kỹ năng và các bước tư vấn

trong chăm sóc sức khỏe sinh sản.

- Thực hiện đúng nguyên tắc truyền máu và các dịch vụ thay máu an toàn

trong sản phụ khoa.

- Hướng dẫn sử dụng kháng sinh an toàn, đảm bảo cung cấp đầy đủ

các thuốc thiết yếu ở tất cả các tuyến cũng như các nguyên tắc vô khuẩn

trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.

Làm mẹ an toàn:

Đảm bảo các chuẩn cho Trạm Y tế về chăm sóc sức khỏe sinh sản sản

phụ trước, trong và sau khi đẻ, các bất thường trong thai nghén và chuyển

dạ.[1]

Phá thai an toàn:

Đảm bảo chuẩn quốc gia về dịch vụ phá thai an toàn bao gồm: Tư vấn

và việc sử dụng các phương pháp kỹ thuật về việc phá thai an toàn. Các

chuẩn quốc gia về kiến thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn của người tư

vấn và cán bộ y tế, điều kiện thuốc men, trang thiết bị kỹ thuật, cơ sở y tế,

phòng khám thai và sự phân tuyến phục vụ theo các loại đối tượng khác

nhau [1].

1.2. Các lý thuyết sử dụng trong đề tài nghiên cứu

1.2.1. Lý thuyết về hành động xã hội

Lý thuyết về hành động xã hội bắt nguồn từ V. Pareto, M. Weber,

Znaniecki, G. Mead, T. Parsons… Các tác giả này đều cho rằng hành động xã



25



hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người và xã hội, là cơ sở của đời sống

xã hội của con người.

Hành động xã hội được M. Weber định nghĩa một cách tổng quát là:

“hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành

động có tính đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới

người khác, trong đường lối, quá trình của nó.” [15,tr. 117]. Như vậy, bất kỳ

hành động xã hội nào cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức với các mức độ

khác nhau. Đây là cái mà M. Weber gọi là ý nghĩa chủ quan và sự định hướng

mục đích, còn G. Mead gọi là tâm thế xã hội của các cá nhân.

Hành động xã hội luôn gắn với tính tích cực của cá nhân. Tính tích cực

này bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như: nhu cầu, lợi ích, định hướng giá

trị của chủ thể hành động.

Hành động xã hội được cấu trúc nên bởi nhiều thành tố khác nhau, giữa

các thành tố này có mối liên quan hữu cơ với nhau. Khởi đầu của nó bao giờ

cũng là nhu cầu, lợi ích của cá nhân, đây là động cơ thúc đẩy hành động.

Động cơ tạo ra tính tích cực của chủ thể, tham gia định hướng hành động và

quy định mục đích của hành động. Bất kỳ hành động nào cũng cần có chủ thể.

Chủ thể hành động có thể là cá nhân, nhóm, cộng đồng hay toàn thể xã hội.

Ngoài ra, để tạo nên hành động cũng cần có môi trường. Đó chính là điều

kiện mà ở trong nó hành động được diễn ra. Tuỳ theo từng hoàn cảnh khác

nhau mà các chủ thể sẽ tạo ra hành động phù hợp nhất với hoàn cảnh đó.

Hành động, kể cả hành động thụ động và không hành động (quyết định

chờ đợi không làm gì cả) được gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan

của nó có tính đến hành vi người khác trong quá khứ, hiện tại hay tương lai; ý

nghĩa chủ quan đó định hướng hành động. M weber phân biệt các loại hành

động

- Hành động duy lý- công cụ là hành động được thực hiện với sự cân

nhắc, lựa chọn công cụ, phương tiện mục đích sao hiệu quả nhất.



26



- Hành động duy lý- giá trị là hành động được thực hiện vì bản thân

hành động (mục đích tự thân).Thực chất loai hành động có thể nhằm vào

những mục đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ phương

tiện duy lý.

- Hành động duy cảm (xúc cảm) là hành động do các trạng thái xúc

cảm hoặc tính chất bột phát gây ra mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân

tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động.

- Hành động duy lý - truyền thống là loại hành động tuân thủ những

thói quen, nghi lễ, phong tục, tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời

khác.

Áp dụng lý thuyết hành động xã hội của MaxWeber vào trong vấn

đề nghiên cứu truyền thông chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ dân tộc

thiểu số qua việc phân tích tác động nhận thức và một số hành vi chăm sóc

sức khỏe sinh sản của phụ nữ thiểu số nhằm giải thích và đánh giá tình

hình truyền thông chăm sóc sức khoẻ của người phụ nữ dân tộc thiểu số.

Yếu tố nào là chủ yếu tác động truyền thông chăm sóc sức khỏe sinh sản đó

là các yếu tố đặc trưng nhóm dân tộc thiểu số, đặc điểm đội ngũ làm công tác

dân số và yếu tố tập quán.

1.2.2 Lý thuyết về truyền thông

Quá trình truyền thông có thể diễn ra theo những phương thức bằng lời

như phát thanh, truyền hình và không bằng lời như tranh ảnh, pano, áp

phích…Cả hai phương thức trên đều sử dụng hệ thống các ký hiệu để truyền

tải nội dung thông điệp. Tuy nhiên hệ thống ký hiệu này rất phong phú và đa

dạng khiến cho các nhà truyền thông luôn chú ý quan hệ giữa các ký hiệu và ý

nghĩa khi truyền thông. Từ đó dẫn tới việc nghiên cứu cách thức truyền thông

sao cho hiệu quả.



27



Trong lịch sử phát triển truyền thông đại chúng đã lần lượt xuất hiện

hai loại mô hình chính là mô hình truyền thông đại chúng một chiều áp đặt và

mô hình truyền thông đại chúng hai chiều mềm dẻo.

Harold Lasswell sử dụng những yếu tố dưới đây để mô tả quá trình

truyền thông được đưa ra vào năm 1948[38,tr.26], bao gồm:

Who: Nguồn phát, chủ thể truyền thông

Says what: Thông điệp, nội dung truyền thông

Inh Which channel: Kênh truyền thông

To Whom: Người nhận thông điệp truyền thông

With What Effects? Hiệu quả truyền thông

Lasswell đưa ra mô hình truyền thông một chiều, được tiến hành truyền

tin theo một tuyến bắt đầu từ nguồn phát qua một quá trình đến người nhận,

nó tác động đến đối tượng tiếp nhận thông tin và tạo hiệu quả của truyền

thông (E).

S



M



C



R



E



S (Source Sender) : Nguồn phát, chủ thể truyền thông

M (Message): Thông điệp, nội dung truyền thông

C (Channel): Kênh truyền thông

R (Receiver): Người nhận thông điệp (đối tượng)

E (Effect): Hiệu quả truyền thông

Đây là mô hình truyền thông đơn giản, song rất thuận lợi khi cần truyền

những thông tin khẩn cấp, tuy nhiên, hầu như sẽ không thu hút được những ý

kiến từ phía đối tượng tiếp nhận. Song ở mô hình này, nguồn phát giữ vai trò

quyết định, áp đặt ý kiến mình đối với công chúng. Người nắm giữ các

phương tiện truyền thông đại chúng chỉ quan tâm chủ yếu đến cái mình muốn,

do đó đưa ra các thông điệp nhằm áp đặt ý muốn của mình cho công chúng.



28



Công chúng chỉ giữ vai trò người tiếp nhận thông tin một cách thủ động,

không có hoặc có rất ít sự đóng góp tích cực hay sự lựa chọn các thông điệp

của mình muốn, nghĩa là không có kênh phản hồi trực tiếp.

Khác với quá trình truyền thông một chiều, quá trình truyền thông mềm

dẻo do Claude Shannon đưa ra sau này đã khắc phục được nhược điểm của

mô hình truyền thông một chiều bằng cách chờ đợi phản ứng đáp lại của đối

tượng tiếp nhận thông tin.

N



S



M



C



R



E



F



Ở mô hình thứ 2 này, các thành tố mới được đưa vào là:

N (Noise): Nhiễu (Yếu tố tạo sai số trong thông tin)

F (Feedback): Phản hồi

Trong mô hình này, thông tin bắt nguồn từ nguồn phát (S) thông qua các

kênh truyền thông đến với người nhận (R) thu được hiệu quả (E) dẫn đến hành

động và dẫn đến phản ứng trả lời ngược lại hay phản hồi (F) đối với nguồn

phát. Nhờ đó nguốn phát sẽ biết được nội dung thông tin đến với đối tượng

tiếp nhận đạt hiểu quả ở mức độ nào, người nhận muốn thu thông tin ở lĩnh

vực nào….Các nhà truyền thông có thể dựa vào đó điều chỉnh nội dung thông

tin của mình cho phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận.

Trong quá trình truyền thông, không phải tất cả các thông điệp có thể đến

với người nhận đầy đủ, chính xác mà còn bị ảnh hưởng của các yếu tố xã hội,



29



yếu tố tâm lý, yếu tố kỹ thuật đến việc lựa chọn và xây dựng thông điệp

truyền thông gọi là nhiễu (N). Yếu tố này tạo nên các sai sót trong quá trình

truyền thông.

Như vậy, chúng ta thấy rằng truyền thông là quá trình diễn ra liên tục

gồm nhiều yếu tố không thể tách rời giữa bên truyền và bên nhận.

Các tương tác này cho thấy truyền thông đại chúng diễn ra như một quá

trình xã hội, nó xuất phát từ thiết chế truyền thông đại chúng đến với công

chúng. Nó tạo nên hiệu quả xã hội trong nhận thức và hành vi của người đọc,

người nghe, người xem, theo những hiệu ứng xã hội mà các phương tiện

truyền thông đại chúng hướng tới.

1.3 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu

Huyện Anh Sơn hôm nay được thành lập từ tháng 4 năm 1963, tách ra từ

huyện lớn Anh Sơn theo Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm

1963 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Huyện được cấu thành từ 20 xã và 1

thị trấn: Thị trấn Anh Sơn, Tam Sơn, Đỉnh Sơn, Cẩm Sơn, Thành Sơn, Bình

Sơn, Thọ Sơn, Hùng Sơn, Tường Sơn, Đức Sơn, Hội Sơn, Hoa Sơn Thạch

Sơn, Phúc Sơn, Long Sơn, Khai Sơn, Cao Sơn, Tào Sơn, Vĩnh Sơn, Lĩnh Sơn,

Lạng Sơn.

Huyện Anh sơn Là một huyện miền núi thuộc miền Tây Nghệ An, trải

dọc theo đôi bờ sông Lam và Quốc lộ 7, phía Đông giáp với huyện đồng bằng

Đô Lương, phía Bắc giáp với huyện miền núi Tân Kỳ và huyện vùng cao quỳ

Hợp, phía Tây giáp với huyện vùng cao Con Cuông và nước bạn Lào, phía

Nam giáp với huyện miền núi Thanh Chương. Cách thành phố Vinh 100km về

phía Tây.

Huyện Anh sơn có diện tích đất tự nhiên năm 2011 là 603,228,50 ha, với

28046 hộ và 130028 khẩu trong đó có 8/21 xã đồng bào dân tộc thiểu số 8.000

khẩu (chiếm 6,4% dân số toàn huyện), có 16/21 xã có đồng bào theo đạo thiên



30



chúa với 7986 khẩu(chiếm gần 6,4% dân số toàn huyện). Có 252 thôn, bản.

Trong đó có 23 bản, làng dân tộc thiểu số. Có 20 xã và 1 thị trấn (Trong đó 8

xã có đồng bào dân tộc thiểu số với gần 1652 hộ và gần 8.000 khẩu).

Như vậy, nguồn lao động của huyện dồi dào. Lực lượng lao động trong

độ tuổi: 53.748 người, trong đó nữ: 26.699 người chiếm tỷ lệ 49,67%, lao

động có việc làm ổn định 51.822 người chiếm tỷ lệ 96,41 %, lao động chưa có

việc làm ổn định 1.650 người chiếm tỷ lệ 3.06 % lao động chưa có việc làm,

lao động đã được đào tạo nghề 5.960 chiếm tỷ lệ 11,08%, lao động chưa được

đào tạo nghề 47.788 người chiếm tỷ lệ 88,91%.

Anh Sơn bước vào gia đoạn cơ cấu dân số vàng, tạo lợi thế về nguồn

nhân lực, một điều kiện quan trọng để nền kinh tế có bức tăng trưởng bứt phá.

Về kinh tế xã hội, thì huyện Anh Sơn tốc độ tăng trưởng kinh tế bình

quân hàng năm của huyện đạt 13,0 - 14,0% năm. Trong 5 năm 2005- 2010

Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt: 17 triệu đồng/người/năm. Tăng

hơn 1,2 lần so với năm 2005.

Văn hóa xã hội được chăm lo và có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống

vật chất và tinh thần của người dân từng bước được cải thiện. Giáo dục đào

tạo chuyển biến rõ nét. Có 42 trường học đạt trường chuẩn quốc gia chiếm

72%, 100% giáo viên đạt chuẩn, 30% giáo viên dạy giỏi. Hệ thống trường học

được nâng cấp và tu sửa khang trang, đáp ứng được nhu cầu dạy và học ở

nhiều nơi trên địa bàn.

Thực hiện tốt các chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an

sinh xã hội tạo việc làm hằng năm 2000 người/năm, tỷ lệ người thất nghiệp

giảm xuống nhiều so với những năm trước; tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 9.5%.

Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao từng bước đáp ứng được

nhu cầu của nhân dân. Quản lý của tỉnh về các hoạt động văn nghệ thể thao

được tăng cường. tỷ lệ gia đình đạt gia đình văn hóa lên tới 83 – 85%, đơn vị



31



đạt chuẩn văn hóa là 75%, tỷ lệ xã, thị trấn có thiết chế văn hóa thể thao đạt

chuẩn quốc gia là 85%.

Tuy vậy, so với cả tỉnh thì Anh Sơn vẫn là một huyện nghèo, mức tăng

trưởng kinh tế chưa xứng với tiềm năng và chưa bền vững, tích lũy từ nội bộ

nền kinh tế dịch chuyển theo hướng CNH – HĐH chậm; chất lượng , hiệu quả,

sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề bức xúc thuộc lĩnh vực văn hóa xã hội

chưa được giải quyết như lao động thiếu việc làm lớn, tệ nạn xã hội còn diễn

biến phức tạp, tai nạn giao thông còn nhiều. Đời sống của nhân dân nhất là

nhân dân vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Chất

lượng giáo dục toàn diện chưa cao, chênh lệch còn nhiều.



32



Chƣơng 2

THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG CHĂM SÓC SKSS CHO PHỤ NỮ

DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ PHÚC SƠN VÀ XÃ TƢỜNG SƠN,

HUYỆN ANH SƠN, TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

Chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản là một trong những nội dung đã

được đặt ra trong chiến lược bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân và chiến

lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Nhiều nhà nghiên cứu y học, xã

hội học, nhân khẩu học đã quan tâm nghiên cứu về sức khỏe sinh sản. Nhiều

nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, cho đến nay các dân tộc thiểu số ở nước

ta vẫn bảo lưu các phương thức truyền thông của mình trong việc thực hiện

các hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản ở một số dân tộc Dao, Hmong, Thái,

Chăm…. Các chuẩn mực và giá trị truyền thông vẫn có ảnh hưởng đáng kể tới

quá trình mang thai và sinh con của phụ nữ dân tộc thiểu số. Một số phong tục

tập quán đến nay vẫn tác động đáng kể đến chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em

đặc biệt trong thời kỳ mang thai và sinh đẻ. Mối quan hệ giữa văn hóa tộc

người và hành vi sinh sản của các dân tộc đều có nguồn gốc sâu xa bắt nguồn

từ văn hóa tộc người của các dân tộc. Vấn đề tâm lý tộc người, các ràng buộc

trong phong tục tập quán đều tác động trực tiếp tới hành vi sinh sản như sinh

nhiều con, không sử dụng các biện pháp tránh thai…Một số nghiên cứu cho

thấy phụ nữ cho thấy phụ nữ dân tộc thiểu số ít quan tâm tình trạng sức khỏe

của họ trong thời kỳ mang thai do thói quen làm việc và trong sinh hoạt

thường ngày, nhiều người còn chưa biết đến chế độ cần thiết cho sản phụ và

thai nhi, thậm chí còn có quan niệm cho rằng trong thời kỳ mang thai người

phụ nữ không nên bồi dưỡng quá nhiều sẽ dẫn đến thai to, khó sinh, người

phụ nữ mang thai cần lao động nhiều hơn, ăn vừa đủ cho dễ đẻ, chế độ ăn



33



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

×