Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 107 trang )
PHẦN II - NỘI DUNG
CHƢƠNG I- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quy luật phát triển
lịch sử của xã hội loài người trên toàn thế giới. Hệ thống quan điểm biện chứng
của Mác về các quá trình và hiện tượng là sự thống nhất của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng về lịch sử và xã hội. Theo Mác, nghiên cứu đời sống xã hội phải
hướng vào phân tích cuộc sống thực, phải xuất phát từ tiền đề " là những cá nhân
hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ ".
Xuất phát điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử là việc phân tích các quá trình
lịch sử từ góc độ hoạt động vật chất của con người, từ góc độ cơ sở kinh tế, từ
quan điểm" tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội". Đồng thời phép duy vật biện
chứng cũng đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và tác động
qua lại, trong mâu thuẫn và vận động, phát triển không ngừng của lịch sử xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi nghiên cứu xã hội phải phân
tích “các cá nhân hiện thực, hoạt động của họ và các điều kiện sống vật chất của
họ ”. Mác cho rằng sự kiện lịch sử đầu tiên và quan trọng nhất là hành động sản
xuất ra các phương tiện thoả mãn nhu cầu vật chất để tồn tại con người và “ tồn
tại xã hội quyết định ý thức ”…
Khi nghiên cứu xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét xã hội với tư cách
là một chỉnh thể gồm các bộ phận có mối liên hệ qua lại với nhau xã hội phát
triển từ hình thái kinh tế - xã hội đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao,v.v. Ở
đây luận văn chỉ đề cập một số quan điểm chung liên quan đến nghiên cứu:"một
số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương thại thuỷ sản giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ".
Chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách là cơ sở lý luận và phương pháp luận
trong nghiên cứu xã hội học nói chung và trong nghiên cứu về một số vấn đề xã
hội nảy sinh trong quan hệ thương thại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói
18
riêng phải tập trung vào phân tích mối quan hệ về kinh tế - xã hội, chính trị, văn
hoá giữa hai bên trong việc tạo ra các chính sách và cơ chế quan hệ cho thương
mại giữa hai bên nói chung, quan hệ thượng mại thuỷ sản nói riêng. Chẳng hạn,
nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương thại thuỷ sản
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tác động đến cơ cấu kinh tế - thương mại giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ như thế nào và cũng như tác động đến các quan hệ về kinh tế,
chính trị, văn hoá giữa hai bên theo xu hướng nào.
Mác cho rằng:“ bản chất con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng
hoà các mối quan hệ xã hội”. Nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh trong
quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không chỉ phân tích ảnh
hưởng của thiết chế kinh tế, các chính sách kinh tế và trao đổi thương mại tới
hành vi, hoạt động của hai bên mà còn phân tích ảnh hưởng của các thiết chế
khác, các chính sách xã hội tới việc cải thiện điều kiện vật chất và tinh thần của
người dân làm nghề thuỷ sản nói chung, cũng như đến mối quan hệ thương mại
thuỷ sản giữa hai bên trong thời kỳ hiện nay.
Tất nhiên, nghiên cứu: "Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quan hệ thương
mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ" phải đặt nó trong bối cảnh và mối tương
tác cụ thể và phát triển theo quy luật quan hệ của nó vì không phải bối cảnh nào
cũng nảy sinh ra các vấn đề xã hội giống nhau v.v…Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay của nước ta có nhiều thành phần kinh tế khác nhau và gắn liền với mục
tiêu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nước Việt Nam:“dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì sự nảy sinh ra một số
vấn đề xã hội trong quan hệ kinh tế giữa hai bên là tất yếu và nó cũng diễn ra
theo quy luật của nó, đồng thời cũng tác động đến khả năng hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam nói chung, của ngành thuỷ sản nói riêng. Chính vì vậy việc
vận dụng các quy luật để giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong quan hệ thương
mại giữa hai bên góp phần tạo nên mối quan hệ tốt đẹp phù hợp với lợi ích của
mỗi quốc gia.
19
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Quan hệ hợp tác quốc tế để phát triển là xu thế tất yếu hiện nay của thế giới,
cũng là nhu cầu của các quốc gia. Các nền kinh tế ( dù ở trình độ nào) đều phải
cần liên kết với nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau. Phát triển
mối quan hệ hợp tác giữa các nước, các tổ chức quốc tế đã trở thành mối quan
tâm của nhân loại. Đảng và Nhà Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm trước thế
giới mong muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng Quốc tế và sẵn sàng
hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực vì sự thịnh vượng chung
của nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, Đảng cộng sản Việt Nam coi phát
triển là phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, tăng trưởng kinh
tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân…
Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp với
bảo vệ vùng biển, mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản, tiến ra biển
xa nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các
thế mạnh và các thế lợi so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu
cầu thị trường trong nước và ngoài nước... Tạo thêm sức mua của thị trường
trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu trong đó coi
xuất khẩu thuỷ sản là một lĩnh vực mũi nhọn.
1.3. Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu một số vấn đề xã hội nảy sinh
trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Trong nghiên cứu xã hội học, đặc biệt là nghiên cứu về "một số vấn đề xã
hội nảy sinh trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, có
nhiều quan điểm và lý thuyết giúp các nhà nghiên cứu có thể vận dụng vào
nghiên cứu của mình. Để thực hiện đề tài luận văn, tác giả vận dụng lý thuyết "
20
Lựa chọn hợp lý" của Coleman và lý thuyết " trao đổi" của Peter Blau làm cơ
sở khoa học để phân tích, đánh giá và dự báo về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ trong thương mại thuỷ sản trong phạm vi giới hạn đã được xác định
của đề tài. Trong quá trình nghiên cứu, căn cứ vào những nét văn hoá riêng của
đất nước, tác giả cố gắng đặt nghiên cứu của mình vào trong bối cảnh cụ thể để
nghiên cứu vừa vận dụng và lựa chọn hợp lý những ưu điểm của các lý thuyết đó.
1.3.1. Lý thuyết Lựa chọn hợp lý: Một số nét cơ bản vận dụng.
Một số tác giả tiêu biểu của lý thuyết lựa chọn hợp lý này là Coleman,
Friendman và Hechter cho rằng sự lựa chọn hợp lý của các chủ thể là có những
mục đích, mục tiêu về cái mà hành động của họ hướng tới. Hành động của các
chủ thể được thực hiện để đạt được các mục đích phù hợp với hệ tư tưởng của họ.
Mặc dù các chủ thể hành động là nhằm vào các mục đích và dự định của họ.
Song điều quan trọng là các chủ thể luôn tính đến 2 yếu tố cơ bản kìm hãm hành
động của họ [14]:
Thứ nhất, sự hiếm hoi các tiềm năng của các chủ thể, vì các chủ thể có các
tiềm năng khác nhau cũng như cách thâm nhập khác nhau vào các tiềm năng
khác. Đối với các chủ thể có nhiều tiềm năng thì họ có thể đạt được kết quả của
họ một cách tương đối dễ (Ví như các ông chủ đứng đầu Hiệp hội các chủ trại
nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA) phải đối phó với sự cạnh tranh về sản phẩm cá tra,
cá basa nhập khẩu từ Việt Nam vào Hoa Kỳ, họ dễ dàng tìm cách để đưa ra
những lý do kiện các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản vào Hoa Kỳ).
Trái lại, đối với các chủ thể có ít tiềm năng thì sự đạt được mục đích của họ lại
trở nên khó khăn hoặc không đạt được mục đích (Ví như, khi các doanh nghiệp
Việt Nam xuất khẩu sản phẩm cá tra, cá basa bị kiện cho rằng bán phá giá sản
phẩm của mình trên thị trường Hoa Kỳ, thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ luôn
gặp những khó khăn để bác bỏ được đơn kiện của Hiệp hội các chủ trại nuôi cá
nheo Hoa Kỳ (CFA) vì nhiều yếu tố như chi phí cao, hoặc vì Việt Nam là một
nước chưa được Hoa Kỳ công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị trường, hoặc
Hoa Kỳ luôn luôn có chính sách bảo hộ nền công nghiệp nội địa của họ.v.v.).
21
Sự hiếm hoi các tiềm năng là một nhân tố kìm hãm các chủ thể hành động.
Các chủ thể luôn tính đến vấn đề chi phí của các cơ hội hay các chi phí đó luôn
gắn liền với chuỗi hành động theo đuổi mục đích của họ, các chủ thể luôn phải
tính đến cái giá của các hành động kế tiếp của họ. Một chủ thể có thể chọn cách
không theo đuổi mục đích có giá trị, lợi nhuận cao nhất nếu tiềm năng của chủ
thể đó hạn chế hoặc nếu kết quả là các cơ may để đạt được mục đích là rất mỏng
manh. Các chủ thể luôn luôn cố gắng để tối đa hoá các lợi ích, giá trị và mục đích
của họ và những mục đích, giá trị, lợi ích đó có thể bao gồm việc đánh giá mối
quan hệ giữa các cơ may để đạt được một mục đích ban đầu và xem xét các cơ
may đó để đạt được mục đích có giá trị tiếp theo.
Thứ hai, sự kìm hãm các hành động của các chủ thể là các thiết chế, chuẩn
mực xã hội. Các yếu tố kìm hãm hành động của các chủ thể cũng còn bao gồm cả
các hình phạt tích cực và tiêu cực đan xen nhau kích thích các chủ thể hành động
một cách xác định có nên lựa chọn hành động đó không hay loại trừ các hành
động đó. Cơ sở của việc lựa chọn hợp lý được Friendman và Hecchter liệt kê hai
ý tưởng sau: (1)- Tập hợp cơ cấu hay quá trình mà qua đó " các hành vi cá thể
riêng biệt được kết hợp để tạo ra kết quả xã hội", (2)- Do nhận thức càng ngày
càng cao về tầm quan trọng của thông tin trong việc lựa chọn hợp lý trong từng
thời điểm, giả sử các chủ thể có được các thông tin hoàn hảo hoặc đầy đủ thì họ
sẽ thực hiện các lựa chọn để theo đuổi mục đích giữa các chuỗi hành động có thể
thế nhau bỏ ngỏ cho anh ta và tất nhiên là việc nhận thức tầm quan trọng của
thông tin là rất đa dạng và sẵn có lại ảnh hưởng sâu sắc tới các lựa chọn của các
chủ thể.
Sự lựa chọn hợp lý (mô hình của hành động hợp lý) được Coleman vận dụng
như là cơ sở ở cấp độ vi mô để lý giải các hiện tượng vĩ mô và ông cho rằng xã
hội học phải tập trung vào các hệ thống xã hội và việc lý giải các hiện tượng
trong các hệ thống xã hội phải được lý giải bởi các yếu tố nội tại của chúng (các
hệ thống - nguyên mẫu là các chủ thể). Hơn nữa, các ý tưởng, quan điểm thường
được tập hợp ở cấp độ cá thể rồi mới được kết hợp lại ở cấp độ hệ thống, cấp độ
22
cá thể chính là nơi "các sự can thiệp" thường được thực hiện để tạo ra các biến
đổi xã hội. Hành động hợp lý của các chủ thể chính là hành động có mục đích để
hướng tới một mục tiêu và mục tiêu đó cũng như hành động đó định hình bởi các
giá trị hay các sở thích nhằm tối đa hoá các lợi ích hay nhằm thoả mãn các nhu
cầu và kỳ vọng của chủ thể..
Trọng tâm trong quan điểm của Coleman là hai nhân tố cơ bản sau: các chủ
thể và các tiềm năng của họ. Các tiềm năng là những cái mà qua đó các chủ thể
kiểm soát và họ có sự quan tâm nhất định về việc kiểm soát các tiềm năng này.
Sự tương tác của các chủ thể và tiềm năng của họ dẫn tới cấp độ hệ thống.: " Nền
tảng tối thiểu đối với một hệ thống xã hội là hai chủ thể, mỗi chủ thể kiểm soát
các tiềm năng về mối quan tâm của chủ thể kia và chính mối quan tâm của từng
chủ thể về các tiềm năng thuộc sự kiểm soát của các chủ thể còn lại dẫn tới việc
cả hai thực hiện các hành động bao gồm…một hệ thống hành động… chính cấu
trúc này và các định hướng của các chủ thể về mục đích thì mỗi chủ thể có mục
tiêu để tối đa hoá nhận thức về các quan tâm của họ dẫn tới sự phụ thuộc lẫn
nhau trong các hành động của họ" [14]
Trong thực tiễn, Coleman cũng cho rằng các chủ thể cũng thường không ứng
xử một cách hợp lý. Song hành động hợp lý của các chủ thể lại được thể hiện
trong mối liên kết vi mô- vĩ mô hay theo cách thức kết hợp của các hành động cá
thể để đưa tới hành vi của hệ thống và hệ thống này có cách thức để kìm hãm các
định hướng hành động của các chủ thể. Quan điểm của Coleman là tiếp cận cấp
vi mô để giả thích các hiện tượng vĩ mô và những khác biệt trong các hiện tượng
vĩ mô có thể truy nguyên tới các cấu trúc khác nhau của các quan hệ ở cấp độ vĩ
mô chứ không phải ở các dạng khác nhau của cấp độ vi mô. Sự vận động từ cấp
độ vi mô sang vĩ mô là việc ban thẩm quyền và các quyền lợi thuộc sở hữu, kiểm
soát của một chủ thể cho một chủ thể khác và hành động này có xu hướng dẫn tới
sự phụ thuộc lẫn nhau của một chủ thể này vào một chủ thể khác.Điều quan trọng
hơn là nó tạo ra một hiện tượng vĩ mô cơ bản nhất - một đơn vị hành động bao
gồm hai chủ thể hay đúng hơn là hai chủ thể độc lập. Mối liên hệ trong một cấu
23
trúc có tính kết quả thực hiện chức năng một cách độc lập với các chủ thể; việc
tối đa hoá các quan tâm của chủ thể này được họ thay bằng cách tìm ra các quan
tâm của chủ thể khác hay của đơn vị tập thể độc lập. Đây vừa là một thực tế xã
hội khác biệt vừa là một thực tế " có những lỗ hổng và làm phát sinh ra các vấn
đề đặc biệt".
Sự chuyển giao việc kiểm soát các tiềm năng của chủ thể này cho chủ thể
khác được thực hiện một cách đơn phương là để tối đa hoá lợi ích của chủ thể
đơn phương chuyển giao từ một viễn cảnh mà anh ta cho là hợp lý. Tuy nhiên, sự
tối đa hóa của cá thể cũng bao gồm một sự cân bằng về việc kiểm soát giữa
nhiêu chủ thể để dẫn tới sự cân bằng trong xã hội. Sự chuyển giao việc kiểm soát
cho một chủ thể khác để đổi lấy việc chủ thể đó nhường lại sự kiểm soát của họ
cho mình được goi là sự chuyển giao không đơn phương (sự trao đổi) thông qua
các tiêu chí có tính chất cân bằng.
Sự từ bỏ một phần các quyền kiểm soát hành động của bản thân một chủ thể
để tiếp nhận một phần quyền kiểm soát các hành động của người khác là thông
qua các tiêu chí.Các tiêu chí được hình thành và duy trì là do một số chủ thể thấy
được các lợi ích từ các tiêu chí đó và sự tổn hại khi vi phạm các tiêu chí đó (tính
hai mặt của tiêu chí- tiêu chí này có lợi cho người này cũng có thể có hại cho
người khác).Nếu các chủ thể chủ quan hoá các tiêu chí có nghĩa là họ tạo ra một
hệ thống trừng phạt nội bộ khi họ vi phạm tiêu chí đó.
Các tiêu chí là những hiện tượng vĩ mô hình thành trên cơ sở của hành động
có mục đích ở cấp độ vi mô. Các tiêu chí có ảnh hưởng nhất định lên hành động
của các chủ thể. Tuy nhiên trong phạm vi tập thể thì các chủ thể hành động theo
mối quan tâm của tập thể.
Trong tổ chức cũng có những xung đột giữa lợi ích cá thể và tập thể và mối
quan tâm của cá thể quyết định quá trình các sự kiện, hiện tượng. Sự tồn tại của
các chủ thể đoàn thể là mới làm nảy sinh ra vấn đề làm thế nào để bảo đảm nghĩa
vụ xã hội của chúng.
24
Coleman cho rằng các nhóm tôn giáo và các cấu trúc có mục đích là các tổ
chức kinh tế và các nhà nước và sự phân biệt này là nhằm xử lý các vị trí trong
các cấu trúc có mục đích hơn là những người cư ngụ trong cấu trúc cơ bản để đi
tìm kiến thức cho sự tái thiết lập một xã hội mới.
1.3.2. Lý thuyết trao đổi của Peter Blau: Một số nét cơ bản vận dụng
Trao đổi xã hội là một khía cạnh, một mặt của hành vi xã hội nhưng lại có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự hội nhập, đoàn kết, thống nhất xã hội. Trao đổi
xã hội được thể hiện ở hai chức năng. Chức năng thứ nhất, trao đổi xã hội tạo ra
mối quan hệ gắn kết, thiện chí, tin cậy, nhất trí trong xã hội và chức năng thứ hai,
trao đổi xã hội là tạo ra mối quan hệ quyền lực giữa các bên tham gia trao đổi
[16]. Trong trao đổi, chủ thể hành động theo hệ giá trị, chuẩn mực của nhóm đã
được hình thành từ trước, có nghĩa là hành động lựa chọn hợp lý; mối liên hệ và
sự trao đổi giữa các cá nhân chịu sự chi phối của sự lựa chọn duy lý của nhóm và
cả bối cảnh xã hội rộng lớn
Trong các tổ chức lớn, trong thiết chế và hệ thống xã hội lớn, trao đổi không
diễn ra trực tiếp mà gián tiếp. Thông qua sự trao đổi gián tiếp, các bên nhận được
sự ủng hộ từ nhiều người khác nhau và đổi lại các cá nhân phải thoả hiệp và chấp
nhận những giá trị, chuẩn mực chung.
Trong trao đổi xã hội, yếu tố cốt lõi là sự phụ thuộc của những bên tham gia
trao đổi với nhau về một lĩnh vực hoặc sản phẩm nào đó mà họ cho là cần thiết.
Sự trao đổi xã hội chứa đựng yếu tố quyền lực và quan hệ trao đổi là cơ sở làm
nảy sinh quan hệ quyền lực [16]. Quyền lực theo Blau là khả năng thực hiện ý chí
của mình ngay cả khi có sự chống cự của người khác, tức quyền lực là khả năng
của cá nhân hay của cả nhóm người trong việc áp đặt ý chí của mình đối với
người khác bất chấp sự chống đối của họ thông qua việc cung cấp phần thưởng
hay tước đoạn những phần thưởng hoặc tiến hành trừng phạt họ. Trong trao đổi
xã hội, quan hệ quyền lực là quan hệ tương tác nhiều chiều. Trong đó người có
quyền và kẻ dưới quyền đều tác động phụ thuộc nhất định vào nhau trên một bối
cảnh nhất định. Ngược lại, nếu có sự khước từ, sự từ chối có tính chất tập thể đối
25
với quyền lực là nguyên nhân gây ra những phản ứng chống lại những người nắm
giữ quyền lực trong nhóm.
Trong quan hệ trao đổi xã hội gồm nhiều người với nhau, quyền lực thể hiện
nhiều bộ mặt khác nhau. Sự trao đổi xã hội của nhóm tạo ra các giá trị và chuẩn
mực giúp cho sự hợp pháp hoá, hợp thức hoá, thiết chế hoá quan hệ quyền lực.
Trong trao đổi xã hội, quyền lực là thứ có thể trao đổi để lấy thứ khác. Do đó,
người có quyền lực vẫn cần phải quan hệ, tương tác với người khác để nhận được
những thứ cần thiết và có giá trị. Đặc biệt, để thực thi quyền lực cưỡng chế các cá
nhân, nhóm có thể tự tạo ra những lệch lạc họăc bóp méo sự thật hay tạo ra
những hàng rào cản trở sự cơ động,năng động xã hội nhằm duy trì quan hệ quyền
lực nhất là để củng cố vị trí trong cấu trúc thang bậc quyền lực trong xã hội.
Các cấu trúc xã hội được Blau phân chia thành hai loại cấu trúc: Cấu trúc xã
hội vi mô - gồm các cá nhân tương tác với nhau tạo thành. Cấu trúc xã hội vĩ mô
- gồm các nhóm tương tác với nhau tạo thành. Hai loại cấu trúc này đều có những
đặc điểm giống nhau, tương tự nhau do cũng bắt nguồn từ các quá trình hấp dẫn
xã hội, trao đổi xã hội và sự chống đối, mâu thuẫn giữa các cá nhân và giữa các
nhóm. Điểm khác nhau của hai loại cấu trúc xã hội này là cấu trúc vĩ mô luôn có
một số loại yếu tố đặc thù sau:
1- Cấu trúc xã hội vĩ mô được hình thành trên cơ sở của sự nhất trí về hệ các
giá trị, các chuẩn mực chi phối hành động và quan hệ giữa các yếu tố tạo thành
cấu trúc
2- Cấu trúc xã hội vĩ mô luôn bao gồm các mối liên hệ phức tạp của các cấu
trúc bộ phận và các cấu trúc vi mô
3- Cấu trúc xã hội vĩ mô có tính bền vững nhờ chứa đựng các thiết chế xã hội
nảy sinh và phát triển trong nó.
1.4. Các khái niệm công cụ
1.4.1. Khái niệm" Vấn đề xã hội"
Đây là khái niệm cốt lõi của đề tài nên tác giả muốn trình bày kỹ hơn khái
niệm này.
26
Vấn đề xã hội, vấn đề nảy sinh trong thực tế xã hội bắt đầu từ những rắc rối
mà chúng ta gặp trong cuộc sống hay cũng có một số học giả gọi đó là những
mâu thuẫn nảy sinh một cách thực tế trong sự phát triển của xã hội. Nói một cách
khái quát vấn đề xã hội nảy sinh khi trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội khi
xuất hiện mâu thuẫn hay sự khác biệt giữa cái cần phải là, cái mà con người kỳ
vọng sẽ xảy ra với cái đang là, đang diễn ra trong thực tế, hoặc đó cũng có thể là
sự khác biệt giữa vai trò xã hội với việc thực hiện vai trò của chủ thể xã hội [25].
Trong xu hướng toàn cầu hoá và quan hệ quốc tế, khái niệm “vấn đề xã hội”
đã trở thành sự quan tâm của toàn cầu khi các bên cùng tham gia vào giải quyết
(ví dụ như vấn đề buôn bán ma tuý xuyên quốc gia, nạn dịch HIV toàn cầu, vấn
đề di dân quốc tế, vấn đề khủng bố quốc tế…), khái niệm này thường được hiểu
theo 2 nghĩa. Theo nghĩa hẹp thì đó là những vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội, như
các vấn đề dân số - kế hoạch hoá gia đình, giáo dục - đào tạo, y tế - chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tệ nạn xã hội... Còn theo nghĩa
rộng thì khái niệm này bao gồm cả những vấn đề kép, như vấn đề kinh tế - xã hội
(lao động, việc làm, xoá đói giảm nghèo...); vấn đề chính trị - xã hội (tự do - dân
chủ, dân quyền, nhân quyền...); vấn đề văn hoá - xã hội (văn hoá - văn nghệ, vui
chơi - giải trí, thể dục - thể thao quần chúng...); vấn đề xã hội - môi trường (bền
vững môi trường, an toàn môi trường, xung đột môi trường, tệ nạn môi trường...)
và có những vấn đề xã hội tổng hợp, như cơ cấu xã hội, tổ chức xã hội, thiết chế
xã hội, hội nhập xã hội, phân tầng xã hội, xung đột xã hội, cách mạng xã hội...
Khái niệm vấn đề xã hội hiện nay vẫn chưa có sự nhất trí về một định nghĩa
chính xác của cái tạo nên vấn đề xã hội. Những tác giả định nghĩa về vấn đề xã
hội như là tình trạng " được một số đáng kể những người đánh giá là sự lệch
chuẩn với những chuẩn bắt buộc [23]". Vấn đề xã hội được hiểu là: " hoạt động
của các nhóm nói lên sự không hài lòng gắn với những tình trạng xấu và đưa ra
những yêu sách" [23]( Ví như các vụ kiện cá tra, cá basa và tôm nảy sinh trong
quan hệ thương mại thuỷ sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ). Vấn đề xã hội là những
tình huống nảy sinh trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội, trong đó đối sách của
27
chủ thể (con người, nhóm xã hội...) chưa đạt được kết quả tối ưu. Theo Merton
vấn đề xã hội bao gồm cả những trường hợp trong đó sự khác biệt giữa chuẩn
mực được chấp nhận về xã hội và những điều kiện thực tế và không được cả
những người trong cuộc lẫn cộng luận không thừa nhận, tức là không chỉ những
vấn đề xã hội "rõ ràng" mà cả những vấn đề xã hội" ẩn dấu" mà các nhà xã hội
học có nhiệm vụ chuẩn đoán nó [23]. Theo Mauss và Bhumer vấn đề xã hội trở
thành phong trào xã hội, tức là nói nên sự không hài lòng của các nhóm xã hội và
đòi hỏi phải thay đổi nó cũng như thành các trường hợp của hành vi tập thể [23].
Căn cứ vào môi trường nảy sinh, đối tượng thể hiện và phạm vi tác động của
nó, người ta phân loại các vấn đề xã hội thành: Vấn đề xã hội toàn cầu, vấn đề xã
hội trong phạm vi quốc gia, vấn đề xã hội trong phạm vi cộng đồng, nhóm xã hội
đặc thù, các vùng dân cư nhất định. Vấn đề xã hội không tồn tại độc lập mà nó
gắn với những đối tượng cụ thể, chẳng hạn như một tập thể, một cộng đồng, một
nhóm xã hội...Nhưng dù ở cấp độ nào các vấn đề xã hội trong phạm vi nhất định
cũng tác động trực tiếp hoặc gián tiếp với những mức độ khác nhau đến cá nhân
và con người chịu hậu quả, vấn đề xã hội tác động đến quyền lợi chính trị, kinh
tế, văn hoá... đến các đối tượng khác nhau trong đời sống xã hội.
Trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định có sự phản ứng lại tức là tạo nó
thành vấn đề và xây dựng nó thành vấn đề. Xã hội học có nhiệm vụ nghiên cứu
những nguyên nhân gây nên tình trạng có vấn đề và có thể thành vấn đề và khảo
sát những điều kiện trong đó những hoàn cảnh riêng biệt trở thành vấn đề, cũng
như tìm ra các biến số có ý nghĩa nhân quả đối với những diễn biến của quá trình
tạo thành vấn đề đó.Vấn đề xã hội được hiểu là những điều kiện và kết quả xã hội
ảnh hưởng xấu đến các nhóm và các loại thành viên xã hội (thậm chí có thể toàn
bộ dân chúng) trong hoàn cảnh sống của họ và được dự luận hay một bộ phận của
công luận định nghĩa như là tất yếu phải thay đổi và được biến thành biện pháp
chính trị [23]. Trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày khái niệm " vấn đề xã hội"
dùng để chỉ đến một loạt các điều kiện xã hội ở những dạng hết sức khác nhau ví
như: sự nghèo khổ, tình trạng tội phạm, thời gian rỗi, tình trạng cô đơn…
28