Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 107 trang )
đất phụ thuộc vào phiếu lấy ý kiến khu dân cư do UBND cấp xã lập, nếu thiếu
sự trung thực sẽ dẫn tới kết quả sai.
Việc tồn tại, sai sót nêu trên trách nhiệm thuộc về lãnh đạo Phòng, Văn
phòng, cán bộ công chức thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận, UBND xã, thị
trấn và Cán bộ địa chính.
Một số nguyên nhân cơ bản của tồn tại, sai sót:
Về chủ quan:
- Giai đoạn từ năm 2004 đến 2008 do huyện mới chia tách rồi sáp nhập,
các cấp chưa chú trọng đúng mức; cán bộ thực hiện công tác này có nhiều thay
đổi, tâm lý một số cán bộ địa chính còn ỷ lại, sợ trách nhiệm; công tác tổ chức
triển khai thực hiện từ huyện đến xã còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp.
- Bên cạnh một số địa phương thực hiện tốt công tác cấp giấy chứng
nhận, còn nhiều cấp uỷ, chính quyền xã chưa chủ động, tích cực chỉ đạo, tổ
chức thực hiện. Ở một số địa phương bộ máy giúp việc, tham mưu cho UBND
xã còn yếu về chuyên môn và năng lực xử lý công việc yếu dẫn đến không
hoàn thành nhiệm vụ đặt ra.
Về khách quan:
- Qua thực hiện công tác cấp giấy chứng nhận đất ở cho thấy các hộ gia
đình, cá nhân hiện đang sử dụng đất chủ yếu do đất ông, cha để lại mà không
có giấy tờ theo qui định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. Để
có căn cứ xét duyệt, ngoài việc người sử dụng đất tự kê khai về thời điểm,
nguồn gốc sử dụng đất thì cán bộ ngành địa chính phải có tài liệu để chứng
minh, xác nhận cho người sử dụng đất. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra việc lưu trữ
các loại tài liệu liên quan đến công tác cấp giấy chứng nhận tại các xã, thị trấn
không được xác lập đầy đủ mà chủ yếu là các loại bản đồ đo đạc qua các thời
kỳ (là cơ sở quan trọng để xác định thời điểm, nguồn gốc sử dụng đất), nhiều
xã đã bị mất hoặc còn nhưng không đồng bộ; một số xã đang lưu trữ, sử dụng
chưa khoa học (nhiều nơi ở thôn có nhưng UBND xã không có) nên chất lượng
hồ sơ phụ thuộc nhiều vào tính trung thực của người sử dụng đất cũng như việc
xét duyệt khách quan, chính xác của cán bộ cơ sở.
52
- Thủ tục cấp giấy chứng nhận phức tạp, chậm được cải cách. Thống kê
cho thấy để cấp mới giấy chứng nhận lần đầu cho hộ gia đình, cá nhân phải
thực hiện 15 bước, trong đó 8 bước do cấp xã thực hiện có vai trò của cán bộ
thôn, xóm là người địa phương biết rõ nguồn gốc, thời điểm sử dụng các thửa
đất để tham mưu UBND xã xét duyệt nên tiến độ, chất lượng cấp giấy chứng
nhận phụ thuộc nhiều vào nhận thức, chuyên môn của những cán bộ này nhưng
chế độ tiền công cho cán bộ cơ sở còn thấp chưa thoả đáng so với thời gian,
công sức làm việc.
- Về cán bộ địa chính xã ngoài công tác cấp giấy chứng nhận còn phải
thực hiện nhiều nhiệm vụ như kiểm kê, thống kê đất đai định kỳ, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, xử lý lấn đất, chiếm đất, sử dụng đất sai mục đích, tranh
chấp đất đai, đăng ký biến động đất đai, giải phóng mặt bằng... nên ảnh hưởng
không nhỏ đến thời gian dành cho công tác cấp giấy chứng nhận.
- Về cán bộ của Phòng, Văn phòng có trình độ, kinh nghiệm thực hiện
công tác này còn rất mỏng, hiện toàn bộ cán bộ tham gia công tác này đã làm
thêm cả ngoài giờ hành chính, ngày thứ bảy và thậm chí cả ngày chủ nhật vì
bên cạnh việc cấp giấy chứng nhận thì việc hoàn thành nhiệm vụ thường xuyên
như xác nhận giao dịch bảo đảm; chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế, đính
chính, phải đảm bảo thời gian theo Phiếu hẹn trả hồ sơ của bộ phận “một cửa”
UBND huyện và một số việc như tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai, xử lý
lò gạch, lấn chiếm đất...
2.2. Đánh giá hiệu quả việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang tên vợ và tên chồng
Từ khi có sửa đổi bổ cung luật đất đai năm 1993, Luật đất dai năm 2003
quy định việc cấp GCNQSDĐ bắt buộc mang tên vợ và tên chồng, chỉ đứng tên
chồng hay vợ nếu một trong hai người xin khước từ tài sản.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 2 tên sẽ tạo điều kiện bình đẳng cho
cả vợ và chồng sở hữu đất; nâng cao nhận thức cho nhân dân, đặc biệt là phụ
nữ khi họ không biết đến quyền lợi của chính mình.
Người phụ nữ sẽ cảm thấy phấn khởi vì được làm chủ tài sản gia đình ngang
với chồng, từ đó tạo tâm lý thoải mái cho cả gia đình, dẫn tới không khí gia đình
đầm ấm, kinh tế gia đình phát triển, con cái được chăm sóc tốt hơn; trong trường
53
hợp ly hôn thì cũng chủ động hơn về việc phân chia tài sản. giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất còn đảm bảo để người vợ tham gia quản lý, bảo vệ tài sản cho
con cái, yên tâm hơn để đóng góp công sức của mình với gia đình, tạo nên sự tự
tin của người vợ bên cạnh người chồng.
Điều đặc biệt quan trọng là khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hai
tên, vị thế của người phụ nữ đã được nâng lên trong gia đình cũng như trong xã
hội, góp phần thay đổi tính gia trưởng ở một bộ phận nam giới.
Nhận thức thực tế khi tìm hiểu người dân về việc ai là người đứng tên
giấy chứng nhận quyền sở hữu/ quyền sử dụng đất.
Bảng 3: Tỷ lệ nam nữ đứng tên chủ hộ
Tỷ lệ nam nữ đứng tên chủ hộ
Nam
Nữ
Tổng
Số lượng
%
136
68.0
64
32.0
200
100.0
Nguồn: Điều tra khảo sát
Thực tế hiện nay người chồng đứng tên tài sản nhà đất trong đa số các gia
đình. Tỷ lệ gia đình có người vợ đứng tên là rất ít. Theo điều tra khảo sát trên cho
thấy trong 200 người được hỏi thì có 136 người là nam giới chiếm 68 % trong khi
đó số người nữ giới đứng tên chủ hộ chỉ là 64 người chiếm tỷ lệ là 32% .
Như vậy rõ ràng là số lượng người chồng đứng tên chủ hộ chiếm tỷ lệ
cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ của người vợ. Sự phổ biến trong việc người
chồng đứng tên các loại giấy tờ sở hữu sẽ tiếp tục gây trở ngại cho người phụ
nữ trong việc bảo đảm quyền và lợi ích của mình về các nguyên nhân dẫn đến
nguồn lực đất đai, mặc dù pháp luật đã có quy định rõ ràng về việc đứng tên tài
sản do hai vợ chồng cùng tạo dựng song quan niệm của người dân vẫn chưa
hoàn toàn thống nhất với quy định của pháp luật.
Nam giới là chủ hộ, trong khi các chủ trương chính sách của Nhà nước
lấy chủ hộ làm chủ thể, vì thế, người đứng tên chủ sở hữu đất đai là chủ hộ,
người đứng tên chủ tài sản cũng là chủ hộ. Khi thế chấp tài sản hay đất đai để
vay vốn, cũng phải do chủ hộ quyết định. Và khi có các lớp tập huấn khoa học
kỹ thuật nông nghiệp thì tất nhiên người tham gia phải là chủ hộ, người đại
diện cho hộ gia đình, và trong đa số trường hợp là nam giới.
54
Theo điều tra khảo sát , thực tế số lượng giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên vợ và chồng đã cấp vẫn rất ít trong 200 người được hỏi thì số
lượng GCNQSDĐ mang tên vợ và tên chồng là 27 giấy chiếm 15,5% , trong
khi đó GCNQSDĐ mang tên vợ là 37 giấy chiếm 20,5% và nhiều nhất là số
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên chồng là 136 giấy chiếm 64%.
Bảng 4: Tỷ lệ cấp GCNQSDĐ
Số lượng GCNQSDĐ đã cấp
Vợ
Chồng
Cả vợ và chồng
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
37
20,5
136
64
27
15,5
Nguồn: Điều tra khảo sát
Từ số liệu trên ta thấy từ năm 2003, Luật pháp đã có quy định về việc
đăng ký tên hai người trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất song dường
như việc triển khai những quy định này vẫn chưa vào thực tế cuộc sống. Tỷ lệ
gia đình có cả vợ và chồng cùng đứng tên thấp hơn nhiều so với mong muốn cả
hai vợ chồng cùng đứng tên của người dân. Trên thực tế việc thực thi cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hai tên hiện đang còn đối mặt với nhiều khó
khăn (chi phí, thời gian, thủ tục). Thủ tục giấy tờ cho việc đổi sổ còn nhiều
phiền phức, nhất là việc xác minh nguồn gốc đất đai.
Thực ra tại địa bàn Mê Linh và Từ Sơn mặc dù việc thực hiện cấp
GCNQSDĐ thực hiện 100 % theo đúng pháp luật. Tuy nhiên các thủ tục hành
chính đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc cấp GCNQSDĐ như các văn bản hướng
dẫn đều thiên về trình tự thủ tục hành chính và chế tài, chưa tìm thấy văn bản
hướng dẫn GCNQSDĐ hai tên có lợi cho người phụ nữ như thế nào và cần phải
thực thi tại các địa phương ra sao
Theo ý kiến của chị Nguyễn Thị N -34 tuổi- Nhân viên phòng Tài nguyên
Môi trường huyện Mê Linh: “ Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
đây diễn ra theo đúng quy định…Tuy nhiên có nhiều gia đình người phụ nữ
không muốn đứng tên trong giấy đã xin khước từ quyền lợi của mình theo quy
định. Số lượng GCNQSDĐ mang tên chồng vẫn còn rất cao… Chính điều này
55
đã dẫn đến tình trạng chị em không có được quyền lợi của mình nhất là trong
trường hợp ly hôn, tranh chấp…Vì vậy, chính quyền cần có biện pháp tích cực
hơn để người vợ hiểu về quyền và lợi ích của mình”
Nhận định ý kiến trên ta thấy người phụ nữ vẫn chưa thấy được lợi ích,
quyền bình đẳng của mình khi có tên trong sổ đỏ. Bởi họ nghĩ rằng nếu cuộc
sống vẫn diễn ra thuận lợi suôn sẻ thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
1 tên hay 2 tên là không quan trọng. Thật tiếc cho họ vì chỉ khi những sự việc
gia đình không may xảy ra, người phụ nữ mới nhận thấy bị thiệt thòi vì mình
không có tên trong GCNQSDĐ.
Điều khác biệt tại Từ Sơn và Mê Linh là việc tập huấn cho phụ nữ về
quyền lợi phụ nữ trong việc đứng tên trong GCNQSDĐ. Tại Mê Linh trong
việc tập huấn tuyên truyền diễn ra thường xuyên, ngoài ra nếu không được dự
các lớp tập huấn thì địa phương sẽ phổ biến quy định của pháp luật cũng như
quyền lợi của người phụ nữ trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Bảng 5: Tập huấn cho phụ nữ về cấp GCNQSDĐ
Số lượng
%
Tổ chức các lớp tập huấn tuyên truyền
87
87.0
Phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng
13
13.0
Tổng
100
100.0
Nguồn: Điều tra khảo sát
Tuy nhiên đối với Từ Sơn - Bắc Ninh thì không có các lớp tập huấn cho
phụ nữ về việc đứng tên trong GCNQSDĐ và quyền lợi, lợi ích của việc đứng
tên trong GCNQSDĐ tuy nhiên trong các phương tiện truyền thông chính
quyền địa phương vẫn lồng ghép vấn đề này. Theo ông Nguyễn Văn H- Phòng
tài nguyên môi trường Từ Sơn: “Từ Sơn là một điểm nóng về đất đai, việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển nhượng và bồi thường rất phức
tạp và được quan tâm, vì lợi ích đó nên cả vợ và chồng đều tự tìm hiểu quyền
lợi cho mình…”.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ và chồng
ngoài những tồn tại và khó khăn tại Từ Sơn và Mê Linh đã nâng cao vai trò và
địa vị cũng như quyền lợi của người phụ nữ. Trước đây người phụ nữ chỉ quan
56
tâm đến việc lo toan chăm sóc cho gia đình còn các việc trọng đại trong nhà do
người chồng quyết định. Tuy nhiên hiện nay tỷ lệ người phụ nữ tham gia vào
các hoạt đông đất đai như: chuyển nhượng, bảo lãnh thế chấp, góp vốn trong
quyền sử dụng đất đang dần dần tăng lên. Đặc biệt trong giao dịch về chuyển
nhượng Quyền Sử dụng đất trong 97 người trả lời thì 65 người trả lời là người
phụ nữ có tham gia các giao dịch về chuyển nhượng chiếm tỷ lệ 67%
Biểu 2: Giao dịch về chuyển nhượng QSDĐ người phụ nữ được tham gia
Có tham gia
Không tham gia
Nguồn: Điều tra khảo sát
2.3. Quyền sử dụng đất đã được cải thiện nhưng khoảng cách giới vẫn tồn tại
Đất vẫn là một trong những tài sản giá trị nhất của người dân Việt Nam
(Ravallion and Van de Walle 2008). Đất chỉ được cấp cho các cá nhân sau thời
kỳ xóa bỏ hợp tác xã gắn liền với quá trình Đổi Mới. Luật Đất đai năm 1993
bắt đầu cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất dài hạn, trước đây thuộc
quyền quản lý của các hợp tác xã, các hộ gia đình, chuyển đổi đất thành một tài
sản gần như cá nhân có thể sinh lời. Tuy nhiên khoảng 10-12% giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất được cấp cho phụ nữ trong vòng mười năm đầu tiên sau cải
cách vì chỉ có chỗ trống để điền tên một người vào giấy chứng nhận và thường thì
giấy chứng nhận được cấp cho chủ hộ, và người này thường là nam giới.
Những phê phán về các hậu quả liên quan đến liên quan đến giới đã dẫn
tới việc đổi mới trong Luật Đất đai 2003 trong đó cho phép ghi tên cả vợ và
chồng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã ban hành hướng dẫn trong đó chỉ rõ rằng phải thay thế các giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất được cấp trước năm 2004 bằng giấy chứng nhận mới ghi rõ
57
tên của cả vợ và chồng. Kết quả là đã có sự gia tăng từ số lượng các giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do phụ nữ đứng tên và đồng sở hữu với đất nông
nghiệp và đất thổ cư ở tất cả các vùng và các hộ gia đình từ năm 2004. So với
năm 2004 tỷ lệ GCNQSDĐ chỉ đứng tên nam giới đã giảm từ 66% xuống còn
62%, trong đó tỷ lệ GCNQSDĐ do phụ nữ đứng tên đã tăng từ 19% lên 20% và
phụ nữ đồng sở hữu tăng từ 15% lên 18%. [21]
Trong những năm vừa qua việc thực hiện cấp GCNQSDĐ mang tên vợ
và tên chồng tại Từ Sơn và Mê Linh đang ngày được quan tâm và tác động
mạnh mẽ đến quyền lợi người phụ nữ.
Bảng 6: Tình trạng bất bình đẳng giới trong sử dụng đất tại địa phương
Số lượng
Không còn bất bình đẳng
%
86
43.0
Còn Bất bình đẳng
114
57.0
Tổng
200
100.0
Nguồn Điều tra khảo sát
Trong 200 người được hỏi thì số lượng người cho rằng hiện tại tình
trạng sử dụng đất tai địa phương không còn tình trạng bất bình đẳng giới là 86
người chiếm tỷ lệ 43% còn số người cho rằng tình trạng bất bình đẳng giới vẫn
diễn ra là 114 người chiếm 57%. Đây là con số cho thấy tình trạng bình đẳng
giới đang được quan tâm và ngày càng được thu hẹp giữa khoảng cách 2 giới
trong việc sử dụng đất. Tuy nhiên nếu không tích cực triển khai các hoạt động
để tuyên truyền về Bình Đẳng Giới và bản thân người dân không tự tìm hiểu
quyền lợi của mình thì khoảng cách này sẽ bị nới rộng hơn và việc thu hẹp
khoảng cách sẽ rất khó khăn
Biểu hiện của bất bình đẳng giới được thể hiện ở quyền lợi trong các thủ
tục liên quan đến quyền sử dụng đất của người phụ nữ. Trong 114 người cho
rằng tại địa phương vẫn còn tồn tại bình đẳng giới thì có 55 người cho rằng
người phụ nữ không được tham gia các giao dịch về QSDĐ chiếm 48,2%, 48
người phụ nữ không được thừa kế chiếm 42,1%, số người phụ nữ không được
chia QSDĐ là 6 người chiếm 5,3% và người phụ nữ không được pháp luật bảo
vệ khi có tranh chấp là 5 người chiếm 4,4%. Điều đó chứng tỏ mặc dù đã quy
58
định theo pháp luật nhưng thực tế người phụ nữ vẫn không được tạo điều kiện
tham gia các hoạt động giao dịch về đất. Điều này được lý giải bởi các giao
dịch về đất đai: bán đất, đấu giá đất…theo quan niệm là những công việc đòi
hỏi người tham gia phải có trình đô, có hiểu biết và có sự quyết đoán và điều
này sẽ phù hợp với nam giới hơn nữ giới.
Bảng 7: Biểu hiện của bất bình đẳng giới
Số lượng
Người phụ nữ không được tham gia các giao dịch về QSDĐ
Người phụ nữ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp
48.2
42.1
6
Người phụ nữ không được chia QSDĐ khi ly hôn
55
48
Người phụ nữ không được thừa kế QSDĐ
Tổng
%
5.3
5
4.4
114 100.0
Nguồn Điều tra khảo sát
Việc thừa kế tài sản là một vấn đề nhức nhối không chỉ ở địa bàn Từ
Sơn- Bắc Ninh và Mê linh -Vĩnh Phúc mà còn diễn ra trên toàn quốc.
Tập tục truyền thống không thừa nhận quyền thừa kế tài sản của con gái và
hiện tại, tập tục này vẫn còn tác động đến tâm lý, thói quen và cách suy nghĩ, hành
xử của một bộ phận nhân dân. Nhiều gia đình ở nông thôn thường không quan tâm
đến hàng thừa kế là con gái, tài sản, đất đai của gia tộc chỉ chia cho con trai, đặc
biệt dành phần ưu tiên cho con trai trưởng để lo phần hương hoả.
Con gái khi đi lấy chồng không được bố mẹ đẻ cho sử dụng đất nông
nghiệp và cũng không được gia đình nhà chồng cho đất mới. Điều đặc biệt là,
do ảnh hưởng của tập tục cũ, mặc dù biết điều đó là bất công, không phù hợp
với pháp luật, nhưng rất ít phụ nữ dám đứng lên đòi hỏi quyền bình đẳng của
mình. Vì thế, các tài sản lớn trong gia đình như đất đai, nhà cửa, xe máy, đất
nông nghiệp đều đứng tên người chồng và người chồng là chủ hộ. Hơn nữa đa
số trường hợp nhà ở và đất ở là tài sản kế thừa do cha mẹ chia cho con trai khi
họ lập gia đình.
59
Việt Nam là một nước nông nghiệp, tâm lý trọng nam khinh nữ đã là một
định kiến hạn chế việc nhận thức đầy đủ và khách quan về năng lực và vai trò
của người phụ nữ. Quan điểm Nho giáo cho rằng "nữ nhân nan hóa" có nghía
phụ nữ là đối tượng khó dạy, tâm tính hèn mọn, tri thức nông cạn...rồi chuẩn
mực "công- dung- ngôn- hạnh" đòi hỏi người phụ nữ phải đảm đương mọi công
việc trong gia đình và hy sinh cho chồng con một cách vô điều kiện. Tâm lý ấy
còn ảnh hưởng khá phổ biến trong xã hội với những biểu hiện phức tạp. Cụ thể
như: một số nơi người phụ nữ vẫn chịu trách nhiệm chính trong mọi công việc
gia đình nhưng lại bị lệ thuộc chồng về quan hệ kinh tế, quan hệ thân tộc, phụ
thuộc cả trong quyết đinh việc sinh con đẻ cái...; ở một số cơ quan, cán bộ lãnh
đạo chưa đánh giá đúng năng lực của phụ nữ, do đó đã không tạo điều kiện
thuận lợi, không bố trí sắp xếp chị em vào những vị trí xứng đáng để họ có điều
kiện phấn đấu, cống hiến...
3. Ảnh hưởng của phong tục tập quán và quan niệm truyền thống về đứng tên
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người hình thành
trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa nhận,
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính bắt buộc, cố
định như nghi lễ, nghi thức nhưng cũng không tuỳ tiện theo hoạt động sống
thường ngày của cá nhân. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững
và tương đối thống nhất.
3.1. Tác động của quan niệm trọng nam, khinh nữ đến vấn đề thực hiện
bình đẳng giới
Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” không chỉ đem lại hệ quả xấu đối với
nam giới trong đối xử với nữ giới mà còn ảnh hưởng lớn đến giới nữ, đến
người phụ nữ trong nhận thức đúng về vị trí, vai trò, khả năng của mình so với
nam giới, đối với gia đình và xã hội.
Do được tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng
giới nhất là về các quyền lợi, phụ nữ đã nhận thức đúng và hiểu biết pháp luật,
hiểu biết các quyền của mình nên đã góp phần bảo vệ, hạn chế các trường hợp
bị vi phạm. Chính vì vậy, vai trò của phụ nữ không ngừng được phát huy và đã
60
có nhiều đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển đất nước. Hiện phụ nữ
chiếm khoảng 49% lực lượng lao động của xã hội, tham gia vào hầu hết các
lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, tỷ lệ nữ tham gia các loại hình: Nhà nước:
46,53%; cá thể hộ gia đình: 49,48%; tư nhân: 36,61%; doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài: 53,45%. Về học vấn, dù phải dành nhiều thời gian để chăm
sóc gia đình hơn nam giới, nhưng phụ nữ đạt trình độ đại học và cao học là
37%; tiến sĩ chiếm 19,9%, phó giáo sư là 6,7%. [2]
Tính cam chịu, sự tự ti ở phụ nữ chính là “chướng ngại vật” rất lớn trong
việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới ở họ. Đây cũng là một trong những vấn
đề bất cập mà công tác tuyên truyền về bình đẳng giới chưa làm tốt được. Điều
này phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người làm công tác tuyên truyền, nhất là
đối với Hội Phụ nữ, người làm công tác hoà giải ở cơ sở, cán bộ làm công tác trợ
giúp pháp lý cho phụ nữ. Bên cạnh đó còn do việc xử lý vi phạm quyền bình đẳng
giới theo quy định của pháp luật còn bị xem nhẹ, xử chưa đúng người, đúng tội
hay dư luận xã hội về cảnh vợ chồng “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”… cũng
khó chuyển dịch “chướng ngại vật” nói trên trong thời gian ngắn. Vấn đề tuyên
truyền về bình đẳng giới cho phụ nữ còn có những “lỗ hổng” khá lớn, tính hiệu
quả chưa cao, thiếu những biện pháp đồng bộ…, nhất là đối với phụ nữ ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, đối với phụ nữ nghèo…
Những yếu tố hình thành nên tư tưởng trọng nam, xem thường nữ mặc
dù đã được khắc phục rất nhiều kể từ khi đất nước giành được độc lập, nhưng
những dư âm, tàn tích tác động đến việc thực hiện bình đẳng giới.
Thứ nhất, trong việc tham gia quản lý, hoạt động xã hội.
Thực tế cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp uỷ, các cơ quan công
quyền và tổ chức chính trị, xã hội còn khiêm tốn.
Phụ nữ đồng bằng sông Hồng chủ yếu mới chỉ tích cực tham gia vào các
tổ chức chính trị, xã hội có liên quan trực tiếp đến bản thân và trách nhiệm của
các chị trong gia đình như: Hội Nông dân: 50%; Hội Phụ nữ: 80,71%; câu lạc
bộ gia đình hạnh phúc không sinh con thứ 3: 57,14%; tập huấn chăn nuôi
56,42%. Họ ít có cơ hội, điều kiện hơn nam giới để tham gia các hoạt động của
61