Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 154 trang )
Về địa bàn cƣ trú: Ngƣời Kinh cƣ trú tập trung tại thị trấn, sống bằng
nghề nông nghiệp, dịch vụ thƣơng mại và du lịch. Các dân tộc khác cƣ trú
chủ yếu ở 17 xã vùng nông thôn2, sống bằng nghề nông nghiệp và nghề rừng
[3-10]. Cả 17 xã vùng nông thôn đều đƣợc xếp vào diện các xã đặc biệt khó
khăn của huyện Sa Pa và của tỉnh Lào Cai.
1.2.2- Đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội:
Nhìn chung, kinh tế Sa Pa chƣa phát triển đúng với tiềm năng sẵn có
của nó. Ngƣời dân phần nhiều vẫn theo các phƣơng thức lao động sản xuất
truyền thống. Cơ cấu ngành nghề khá đơn giản, chủ yếu dựa vào nông - lâm
nghiệp. Đất canh tác nông nghiệp hiện nay của cả huyện chỉ chiếm 10,8%
diện tích tự nhiên, trong đó 45% là đất trồng lúa nƣớc (1400 ha) và 39% là
đất nƣơng mà chủ yếu là nƣơng ngô [34]. Phần lớn đất bị rửa trôi bạc màu.
Điều kiện khí hậu rất khắc nghiệt về mùa đông, trong 1 năm chỉ trồng đƣợc
1 vụ lúa (cây lƣơng thực chủ đạo). Vì thế, lƣơng thực bình quân chỉ đủ cung
cấp từ 6 đến 10 tháng cho các hộ nông dân ở đây.
Theo phƣơng thức sản xuất trƣớc đây, vào thời điểm giáp hạt, ngƣời
nông dân dựa chủ yếu vào các sản phẩm khai thác đƣợc từ rừng tự nhiên
nhƣ: gỗ, nấm, măng, các loại cây dƣợc liệu, cây cảnh, mật ong, củi, thịt thú
rừng... một phần để sử dụng, một phần đem bán lại hoặc trao đổi lấy những
vật dụng cần thiết khác. Vì thế, tài nguyên rừng ở Sa Pa bị giảm sút một
cách nhanh chóng.
Nắm bắt đƣợc tình hình trên, nhằm hạn chế nạn phá rừng, cải thiện
đời sống cho ngƣời dân miền núi, Nhà nƣớc và chính quyền huyện Sa Pa đã
cố gắng tìm nhiều biện pháp giúp dân xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống
và nâng cao thu nhập. Nhiều dự án đầu tƣ của các chƣơng trình định canh
2
Ngoài thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa còn bao gồm 17 xã: Lao Chải, Tả Van, Hầu Thào, Sử Pán, Trung Chải,
Sa Pả, Tả Phìn, Bản Khoang, Tả Giàng Phình, Thanh Kim, Bản Phùng, Bản Hồ, Thanh Phú, Nậm Sài, Nậm
Cang, Suối Thầu, San Sả Hồ.
26
định cƣ, chƣơng trình trồng rừng và phát triển lâm nghiệp, chƣơng trình
khuyến nông của Nhà nƣớc cũng nhƣ của một số tổ chức phi chính phủ, các
tổ chức quốc tế đã và đang đƣợc thực hiện ở nhiều xã trong huyện.
Hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp là hoạt động sản xuất chính của
các xã đặc biệt khó khăn huyện Sa Pa, chiếm 67% cơ cấu kinh tế của huyện.
Kết quả sản xuất nông nghiệp qua giai đoạn từ 1995 - 1998 thể hiện nhƣ sau:
Diện tích canh tác nông nghiệp năm 1998 là 3.354 ha, tăng so với năm
1995 là 305 ha, bao gồm: Đất trồng cây hàng năm : 2.853 ha; Đất vƣờn tạp:
330 ha; Đất trồng cây lâu năm: 157 ha; Đất nông nghiệp khác: 24 ha. Đối
với diện tích trồng cây lƣơng thực năm 1998 là 3.251 ha, tăng so với năm
1995 là 398 ha, diện tích cấy lúa ruộng là 1.574 ha với toàn bộ diện tích cấy
lúa 1 vụ.
Trong cơ cấu cây trồng, ngoài loại cây trồng chủ yếu là cây lúa nƣớc,
còn nhiều loại cây trồng khác nhƣ cây lúa nƣơng, cây ngô, khoai, đao, đậu;
các cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tƣơng, lạc, lanh); cây công nghiệp dài
ngày (chè, quế, trẩu, thảo quả) và các cây ăn quả nhƣ: đào, lê, mận, nho...
Do diện tích đất canh tác nông nghiệp ít ỏi, chủ yếu là đất dốc và
ruộng bậc thang nên hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Sa Pa có nhiều khó
khăn hơn so với các huyện vùng thấp của tỉnh Lào Cai. Điều đó dẫn đến sản
lƣợng nông nghiệp đạt đƣợc không cao. Bên cạnh đó, cây lâu năm, cây dƣợc
liệu đƣợc coi là thế mạnh của huyện, còn chiếm tỷ trọng thấp. Trong vài
năm trở lại đây, do những cải tiến kỹ thuật nhƣ đƣa một số cây lƣơng thực
vụ xuân vào trồng trên đất ruộng một vụ, đƣa một số loài cây trồng có năng
xuất cao, có sức đề kháng sâu bệnh tốt, từng bƣớc thay thế các giống cây
lƣơng thực năng xuất thấp, nên sản lƣợng lƣơng thực của huyện Sa Pa đã có
sự chuyển biến đáng kể. Số liệu về tỉ lệ tăng năng xuất lúa thu hoạch hàng
năm của huyện cho thấy: năng xuất lúa ruộng năm 1995 là 26,2 tạ/ha, đến
27
năm 1998 tăng lên là 32,5 tạ/ha; tốc độ tăng năng xuất bình quân mỗi năm là
8% [31].
Ngƣợc lại, diện tích lúa nƣơng mấy năm gần đây có xu hƣớng bị giảm
dần năm 1995 là 170 ha đến năm 1998 chỉ còn 150 ha, do tình trạng xói mòn
đất.
Sau cây lúa, cây ngô là một trong những cây trồng chủ đạo, đƣợc
ngƣời dân chú ý tăng mạnh diện tích trồng. Tính từ năm 1995, diện tích đất
trồng ngô là 930 ha thì đến năm 1998 đã lên đến 1.065 ha. Năng xuất bình
quân tăng từ 1,5 tạ/ha (1995) lên 13 tạ/ha (1998). Hiện nay, một số giống
ngô mới đang bắt đầu đƣợc trồng, năng xuất tăng gấp 2 lần.
Đối với cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày: Trong các năm
trƣớc, việc sản xuất cây thực phẩm chỉ tập trung ở gần trung tâm huyện, chủ
yếu trồng các loại rau ƣa lạnh. Trong vài năm trở lại đây, do nhu cầu hạt
giống các loại nhƣ su hào, cải bắp, rau cải... giảm, ngƣời dân cũng giảm dần
diện tích trồng cây thực phẩm. Nhằm mục đích thay đổi cơ cấu cây trồng,
thâm canh tăng vụ, huyện Sa Pa đã khuyến khích nông dân trồng các loại
cây nhƣ khoai tây, rau, đậu các loại. Tuy diện tích trồng các loại cây này
ngày một gia tăng, nhƣng năng xuất đạt đƣợc không ổn định. Các loài cây ăn
quả nhƣ: mận, táo tây, đào, lê... rất phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai
nhƣng hiệu quả đạt đƣợc còn quá thấp so với tiềm năng vốn có. Cây chè Sa
Pa vốn là loại chè đặc sản, nhƣng mãi đến năm 1998 mới đƣợc khôi phục và
bắt đầu trồng thử nghiệm trên 10 ha. Cây Thảo quả, một loại cây có giá trị
kinh tế lớn, mang lại hiệu quả thực sự cho ngƣời dân, từ lâu đã đƣợc trồng ở
Sa Pa và hiện nay tiếp tục đƣợc nhân rộng. Theo số liệu của Phòng nông
nghiệp huyện Sa Pa: năm 1998, toàn huyện Sa Pa có 720 ha trồng thảo quả,
tăng so với năm 1995 là 420 ha; sản lƣợng thảo quả năm 1998 là 94 tấn, tăng
so với năm 1995 là 53 tấn. Trồng và sản xuất cây dƣợc liệu là thế mạnh của
28
Sa Pa, nhƣng do thị trƣờng không ổn định nên diện tích trồng cây dƣợc liệu
thƣờng thay đổi theo từng năm.
Hiện nay, Sa Pa đã hình thành một số vùng sản xuất cây trồng tập
trung và bƣớc đầu mang tính chất sản xuất hàng hoá nhƣ: Vùng trồng cây
chè tập trung ở Sa Pả, Tả Phìn, Trung Chải; Vùng cây ăn quả (đào, lê, mận)
tập trung ở Tả Phìn, Sa Pả, Trung Chải, Hầu Thào, Tả Van, Lao Chải, San
Sả Hồ; vùng trồng rau xanh ở Sa Pả và Hầu Thào.
Về chăn nuôi, từ bao đời nay, cƣ dân Sa Pa chủ yếu duy trì phát triển
đàn vật nuôi (gia súc, gia cầm) theo hƣớng chăn nuôi hộ gia đình, với
phƣơng thức nuôi thả rông. Theo số liệu thống kê của phòng Nông nghiệp
huyện Sa Pa, năm 1998, toàn huyện có 6130 con trâu, 985 con bò, 2.050 con
ngựa, 3.550 con dê, đàn lợn 7.750 con, đàn gia cầm 48.700 con. Giá trị sản
lƣợng ngành chăn nuôi năm 1998 đạt 9.500 triệu đồng, tăng hơn năm 1995
là 1.720 triệu đồng. Trong chăn nuôi, nuôi lợn chiếm tỷ trọng lớn, giá trị sản
lƣợng là 4.370 triệu đồng, bằng 46% giá trị ngành chăn nuôi. Về tốc độ phát
triển ngành chăn nuôi hàng năm so với năm 1995, 1996, 1997, đại gia súc
tăng 4,5%; gia cầm tăng 7%; sản lƣợng thịt tăng 9%.
Bảng: Số liệu về thực trạng nông nghiệp của huyện Sa Pa từ năm 19951998.
Hạng mục
Giá trị sản phẩm
Tỷ trọng %
(triệu đồng)
Tăng so với
năm 1995 %
Toàn ngành nông nghiệp
33.400
100,0
30
Ngành Trồng trọt
23.900
72
33
Ngành Chăn nuôi
9.500
28
18
Nguồn: Phòng Nông nghiệp Huyện Sa Pa
Qua những cứ liệu đƣợc phân tích ở trên cho thấy, nhìn chung những
năm gần đây, ngành sản xuất nông nghiệp của huyện Sa Pa đã có hƣớng phát
29
triển mạnh năm sau cao hơn năm trƣớc. Tuy nhiên, tốc độ phát triển vẫn còn
ở mức thấp. Biểu hiện cụ thể ở năng suất đạt đƣợc của chăn nuôi và trồng
trọt còn thấp và không ổn định. Một số sản phẩm có ƣu thế của huyện nhƣ:
dƣợc liệu, rau giống lại có xu thế giảm dần và thu hẹp diện tích. Cơ cấu
nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi mới đạt 28%
tổng giá trị nông nghiệp; tỷ trọng cây lâu năm mới đạt 5% giá trị ngành
trồng trọt.
Đối với sản xuất lâm nghiệp, trong những năm gần đây, chính quyền
huyện đã thực hiện chính sách giao khoán đất rừng và trồng rừng cho nhân
dân. Bên cạnh đó, ngƣời dân địa phƣơng, đặc biệt nhân dân các dân tộc sống
ở các xã ngoài thị trấn càng ngày càng nhận thức đƣợc vị trí, tác dụng của
rừng đối với đời sống và môi trƣờng sinh thái của bản thân mình. Do vậy tỉ
lệ đất trống, đồi núi trọc đã giảm đi đáng kể. “Năm 1995, diện tích đất có
rừng là 22.573 ha, trong đó rừng trồng là 2.030 ha, tỉ lệ che phủ là 35%. Đến
năm 1998, diện tích đất có rừng là 27.529 ha, trong đó rừng tự nhiên có
23.530 ha, rừng trồng là 3.534 ha, tỉ lệ che phủ là 37%. Hiện nay đất có khả
năng lâm nghiệp còn trống là 22.164 ha” [33].
- Về kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình:
Trong vài năm trở lại đây, nhìn tổng thể, kinh tế vƣờn đồi, trang trại
tại huyện Sa Pa đã có xu hƣớng phát triển, chủ yếu với 3 loại hình trang trại:
Vƣờn - đồi - chuồng; Vƣờn rừng; Vƣờn - ao - chuồng. Song thực chất sự
phát triển này không mang tính ổn định và bền vững cả về số lƣợng và quy
mô diện tích trang trại. Thậm chí có những trang trại vừa lập lên năm trƣớc,
năm sau đã không duy trì đƣợc sản xuất. Nguyên nhân của sự không ổn định
đó bởi trình độ, kiến thức tổ chức sản xuất của ngƣời dân cũng nhƣ chất
lƣợng sản phẩm làm ra còn thấp chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đòi hỏi của thị
trƣờng. Mặt khác do những điều kiện khách quan nhƣ vốn đầu tƣ sản xuất và
30
đầu ra cho sản phẩm chƣa đƣợc quan tâm thích đáng. Do vậy, bên cạnh
những hộ đạt danh hiệu hộ gia đình sản xuất giỏi (358 hộ), danh hiệu hộ gia
đình nghèo vƣợt khó (56 hộ), vẫn tồn tại số lƣợng lớn hộ gia đình đói nghèo
(1.953 hộ) – (Số liệu Phòng Nông nghiệp huyện Sa Pa). Tỷ lệ hộ đói nghèo
trong toàn huyện là 40,2%, trong đó hộ đói là 16,5%. Nguyên nhân của tình
trạng trên vẫn là lao động thiếu việc làm, thiếu sức kéo, ốm đau, thiếu vốn
sản xuất, không biết cách làm ăn và lƣời lao động.
Bảng: Số liệu về tình hình phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại
17 xã đặc biệt khó khăn huyện Sa Pa.
Số
TT
Chỉ tiêu
ĐV
tính
Chia theo các năm
1996
1997
1998
1
*
Kinh tế hộ gia đình
Số hộ sản xuất giỏi
hộ
67
117
174
*
2
Hộ giỏi cấp huyện
hộ
Hộ giỏi cấp tỉnh
hộ
Thu nhập bình quân hộ Tr/đ
Kinh tế trang trại
42
25
2,85
73
44
3,0
111
63
3,3
*
Loại hình trang trại
-
Vƣờn - đồi - chuồng
T.trại
3
-
Vƣờn rừng
”
2
23
8
-
Vƣờn - ao - chuồng
”
1
9
*
Quy mô T/trại (B/Q)
-
Vƣờn - đồi - chuồng
ha
6,5
-
Vƣờn rừng
”
7,0
57,8
-
Vƣờn - ao - chuồng
”
3,5
22,7
31
17,5
Ghi chú
Năm 97,98 có
56 hộnghèo
vƣợt khó
T/đó có
2nhóm hộ
3
Số hộ đói, nghèo
-
Số hộ đói
hộ
1054
963
802
-
Số hộ nghèo
hộ
1520
1275
1151
Nguồn: Phòng Nông nghiệp Huyện Sa Pa
Lý giải cho con số hộ đói nghèo trên có rất nhiều cách, song có lẽ
nguyên nhân chính là ở phƣơng thức sản xuất nông nghiệp của ngƣời dân đã
lạc hậu. Mặt khác, ngƣời dân vẫn giữ thói quen khai thác nguồn lợi có sẵn
trong tự nhiên phục vụ đời sống. Trong khi cuộc sống của ngƣời nông dân
Sa Pa chủ yếu dựa vào canh tác nông nghiệp với vai trò chủ đạo của cây lúa,
thì bởi các điều kiện tự nhiên, cây lúa chỉ trồng đƣợc một vụ trong năm. Bên
cạnh cây lúa, ngƣời nông dân chƣa quan tâm phát triển các loại cây trồng có
đặc tính kinh tế cao nhƣ rau quả và dƣợc liệu quý... Do đó, ở Sa Pa vẫn còn
tình trạng ngƣời dân du canh du cƣ, định cƣ du canh. Điều kiện sống của họ
hết sức khó khăn, nhà cửa sinh hoạt chủ yếu là nhà gỗ tạm và nhà tranh tre
nứa lá. Tính đến năm 1998, vùng nông thôn ngoài thị trấn Sa Pa chƣa có nhà
xây kiên cố.
- Về các ngành nghề thủ công:
Trong truyền thống, do tập quán tự cấp tự túc, ngƣời nông dân không
chỉ làm ra lƣơng thực để nuôi sống bản thân mà còn làm ra những phƣơng
tiện phục vụ sản xuất, sinh hoạt, nhƣ: cuốc, dao, sọt, gùi ... và trồng cây lanh
để lấy sợi dệt vải, may áo. Những công việc đó đƣợc làm tại gia đình, phục
vụ các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Ngày nay, với sự phát triển của xã hội
nói chung và sự phát triển của kinh tế du lịch nói riêng, một số sản phẩm từ
việc dệt thổ cẩm, đồ mây tre đan là nghề truyền thống của đồng bào dân tộc
ở Sa Pa đƣợc khách du lịch rất ƣa chuộng. Đặc biệt, với sự tác động tích cực
32
của các hoạt động du lịch, một phần nhỏ các sản phẩm trên đƣợc đem bán tại
thị trấn Sa Pa cho khách du lịch.
Theo xu hƣớng đó, đã xuất hiện, tồn tại và phát triển hình thức sản
xuất thổ cẩm có tổ chức tại xã Tả Phìn. Kết quả từ việc làm đó đã nâng cao
đời sống cho ngƣời nông dân, tăng cƣờng sự giao lƣu học hỏi, hiểu biết và
tạo nên sự đoàn kết giữa các tộc ngƣời khác nhau trong quá trình sinh hoạt
sản xuất. Mô hình này đang đƣợc chính quyền Huyện cho phép nhân rộng ra
các xã khác trong toàn huyện.
- Về các hoạt động văn hoá:
Văn hoá Sa Pa thống nhất trong sự đa dạng của văn hoá các dân tộc
cùng sinh sống trên địa bàn. Nhìn trên bình diện tổng thể, văn hoá Sa Pa là
hội tụ bản sắc văn hoá của các dân tộc sinh sống trên địa bàn huyện. Trong
đó, nổi bật nhất là sắc màu của ngƣời H'mông, Dao đỏ.
Trải qua thời gian dài sinh sống trên mảnh đất Sa Pa, các cƣ dân các
dân tộc nơi đây có một đời sống văn hoá tinh thần khá đa dạng và phong
phú. Biểu hiện của sự phong phú và đa dạng trong các lễ nghi, phong tục tập
quán, các lễ hội cầu mùa, các sinh hoạt văn hoá giao duyên đặc sắc, sống
động. Trong các kho tàng văn hoá dân gian gồm nhiều loại hình: thần thoại,
truyện cổ tích, các thể loại dân ca, tục ngữ giàu trí tƣởng tƣợng và sức biểu
cảm. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, với chính sách mở cửa của
nhà nƣớc đã tạo điều kiện mở rộng môi trƣờng giao tiếp văn hoá, từ đó làm
nảy sinh những yếu tố văn hoá mới trên cơ tầng văn hoá cổ truyền của các
dân tộc. Văn hoá truyền thống và văn hoá mới đan xen tồn tại trong văn hoá
tộc ngƣời. Vào mỗi dịp xuân về, các dân tộc ở Sa Pa vẫn mở những lễ hội
truyền thống của dân tộc mình. Ngoại trừ những thủ tục lễ nghi bắt buộc
trong từng lễ hội, hầu hết các lễ hội này đã trở thành ngày hội chung của cƣ
33
dân các dân tộc bởi bản thân nó là sự hoà nhập của nhiều yếu tố văn hoá các
dân tộc trong vùng. Trong phong tục tập quán và tín ngƣỡng, trƣớc kia, các
làng H'mông trong những ngày đầu năm mới thƣờng tổ chức lễ ăn ƣớc "Nào
xồng" với mục đích chủ yếu để thống nhất các vấn đề nhƣ cấm thả rông gia
súc trong mùa vụ gieo trồng, bảo vệ rừng cấm, phòng chống trộm cƣớp... thì
đến nay, bằng việc xây dựng các qui ƣớc "nếp sống văn hoá", lễ ăn ƣớc
"Nào xồng" đã thay đổi...
Tựu chung lại, về cơ bản, các sinh hoạt văn hoá truyền thống của các
dân tộc vẫn đƣợc bảo lƣu song đã có những thay đổi để phù hợp với xu
hƣớng phát triển chung của xã hội hiện nay.
Về các phƣơng tiện truyền thông phục vụ các sinh hoạt văn hoá, văn
nghệ tại cộng đồng, tại khu vực thị trấn Sa Pa có đài truyền thanh và đài thu
phát truyền hình qua vệ tinh thực hiện việc thu phát các tin tức thời sự, thể
dục thể thao, tin văn hoá văn nghệ, phim truyện... phục vụ nhu cầu của nhân
dân trong huyện. Đặc biệt, huyện Sa Pa đã có chƣơng trình phát sóng truyền
hình riêng, chủ yếu thông báo các tin tức tình hình cập nhật trên địa bàn
huyện, tin về thời tiết, mùa vụ,... và phổ biến các thông tin cần thiết khác của
chính quyền huyện đến ngƣời dân. Tại Bản Dền, Huyện Sa Pa cũng lắp đặt
một trạm tiếp sóng truyền hình trung ƣơng và truyền hình huyện phục vụ
cho khu vực các xã ở xa thị trấn. Qua số liệu điều tra về tỉ lệ % dân số đƣợc
xem truyền hình và nghe đài tại huyện Sa Pa cho thấy: có 29% dân số toàn
huyện đƣợc phủ sóng phát thanh (khoảng 9200 ngƣời), 15% dân số đƣợc
phủ sóng truyền hình (khoảng 4650 ngƣời). Bên cạnh hệ thống phát thanh,
truyền hình, Huyện có một đội chiếu bóng và một đội thông tin lƣu động,
thƣờng xuyên xuống các xã phục vụ tuyên truyền đƣờng lối chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc đến ngƣời dân. Đồng thời, Huyện còn tổ chức thành lập
34
13 đội văn nghệ theo từng dân tộc nhƣ H'mông, Dao, Xa Phó (Phù Lá) để
biểu diễn phục vụ bà con các dân tộc nơi đây.
Tiểu kết:
Với những điều kiện tự nhiên, xã hội trên đây, chúng ta thấy huyện Sa
Pa có một tiềm năng du lịch to lớn. Nếu đƣợc quan tâm đầu tƣ và có kế
hoạch phát triển một cách toàn diện, huyện Sa Pa có đầy đủ các điều kiện và
cơ sở để phát triển thành một vùng du lịch sinh thái nhân văn lớn của cả
nƣớc.
CHƢƠNG 2
TIỀM NĂNG VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Ở HUYỆN SA PA.
2.1- Vị trí điểm du lịch Sa Pa trong hệ thống các điểm du lịch ở Việt
Nam.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, Sa Pa đƣợc
xác định là điểm du lịch quan trọng cấp quốc gia thuộc tiểu vùng du lịch
miền núi Tây Bắc của vùng du lịch Bắc Bộ, bao gồm các tuyến du lịch quốc
gia Hà Nội - Lào Cai; tuyến du lịch nối liền các tỉnh vùng Đông Bắc và Việt
Bắc Việt Nam; tuyến du lịch biên giới Việt - Trung. Phát triển du lịch Sa Pa
35
nhằm tạo ra một hệ thống sản phẩm du lịch hoàn chỉnh, bao gồm nhiều loại
hình đa dạng, phong phú, theo hƣớng văn hoá, sinh thái và cảnh quan môi
trƣờng.
Nằm trong tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc, Lào Cai là một tỉnh
miền núi, biên giới, nằm về phía Bắc Việt Nam có chung đƣờng biên giới
với Trung Quốc. Nằm ở vị trí đầu cầu nối liền Việt nam và vùng Tây Nam
Trung Quốc, có hệ thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng thuỷ chạy
qua, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế và văn hoá.
Với tiềm năng tự nhiên, nhân văn rất đa dạng, phong phú và hấp dẫn
nhƣ địa hình, khí hậu, truyền thống văn hoá của 27 dân tộc, cùng với vị trí
địa lý thuận lợi, Lào Cai có điều kiện để phát triển nền kinh tế tổng hợp,
trong đó du lịch đƣợc xác định là một ngành kinh tế có triển vọng giữ một
vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh. Sự phát triển của du lịch - dịch
vụ góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Du lịch phát triển,
kéo theo và thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Có thể nói Lào Cai là
một điểm du lịch quan trọng trong hệ thống các tuyến điểm du lịch của quốc
gia, trong đó Sa Pa đƣợc xem nhƣ một tuyến điểm du lịch quan trọng của
tỉnh Lào Cai. Trƣớc hết về không gian du lịch Lào Cai, chia ra 4 khu vực
chính là:
- Khu vực 1 gồm 4 huyện phía Tây Nam (Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn
Bàn, Than Uyên), tài nguyên du lịch chƣa tập trung, không điển hình cả về
tự nhiên và nhân văn, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất chƣa đồng bộ nên
việc tổ chức còn khó khăn và đầu tƣ tốn kém.
- Khu vực 2 là vùng núi Đông Bắc (gồm Mƣờng Khƣơng, Bắc Hà,
Xima Cai), nằm gọn trong vùng này là cảnh đẹp, là khí hậu quanh năm mát
36