Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 154 trang )
mũ, đến váy, áo, cả loại đã qua sử dụng cũng nhƣ đồ dự trữ. Song, một mặt
do nhu cầu của thị trƣờng tiêu thụ ngày một lớn, mặt khác, do nguồn dự trữ
ít ỏi trong các gia đình chủ yếu phục vụ cho tiêu dùng đã nhanh chóng cạn
kiệt, đã dẫn đến những cách phản ứng khác nhau trong cộng đồng các cƣ dân
H'mông và Dao đỏ tại Sa Pa. Một bộ phận nhỏ có tiềm lực kinh tế tƣơng đối
khá đã bỏ vốn ra và cất công đến tận các bản làng xa xôi ở Sa Pa cũng nhƣ ở
các địa phƣơng khác để thu mua thổ cẩm mang về Sa Pa bán kiếm lời. Có
thể nói, chỉ trong vòng 3 đến 4 năm (1990 - 1994) phạm vi vƣơn tới để khai
thác nguồn hàng cuả họ đã sang một số huyện lân cận nhƣ Bát Xát, Mƣờng
Khƣơng, Bắc Hà, Mù Căng Chải, thậm chí đến tận Điên Biên Đông của tỉnh
Lai Châu, cách Sa Pa gần 30 Km. Một số khác có những phản ứng tích cực
hơn bằng cách tăng thời gian lao động nhằm tạo ra nhiều hơn nữa các sản
phẩm tại chỗ. Đây là một hƣớng đi đang đƣợc chính quyền huyện Sa Pa
khuyến khích phát triển bởi nó giúp họ đạt đƣợc mục đích vừa có thể thoả
mãn nhu cầu của thị trƣờng phát triển du lịch tại địa phƣơng vừa giữ gìn và
phát huy đƣợc bản sắc văn hoá của các dân tộc.
Trƣớc hết, nghiên cứu về xu hƣớng phản ứng thứ nhất của ngƣời
H'mông, Dao đỏ cho thấy, trƣớc yêu cầu đòi hỏi của thị trƣờng du lịch và
nhu cầu phát triển nâng cao đời sống của chính bản thân họ, việc tham gia
vào hoạt động thu mua, sản xuất và bán các sản phẩm thổ cẩm đã mang lại
nhiều lợi ích kinh tế. Do vậy, đã thu hút số đông ngƣời H'mông, ngƣời Dao
đỏ tham gia bao gồm các bà già, phụ nữ đã có chồng con, một số ít nam giới
và số đông trẻ em, chủ yếu là trẻ em gái.
Lực lƣợng chủ yếu và trực tiếp tham gia là phụ nữ, từ những bà già
70 tuổi đến những trẻ em gái 7 tuổi. Bằng hình thức đi rong trên phố, họ
mang theo số lƣợng hàng hoá nhất định để chào hàng và bán cho khách du
83
lịch. Tham gia gián tiếp là một số ít nam giới - những ngƣời có khả năng
làm ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ nhƣ đồ trang sức, vòng đeo tay, vòng
cổ... các loại nhạc cụ khèn môi, khèn trúc - ở tại các bản làng. Những sản
phẩm này đƣợc các chủ kinh doanh trên thị trấn và những ngƣời bán hàng
rong thu mua hoặc do chính những thành viên trong gia đình nhƣ vợ, con gái
mang lên thị trấn bán cho khách du lịch.
Việc mua và bán sản phẩm thổ cẩm từ các địa phƣơng khác đƣợc
phát triển một cách tự do đã diễn ra nhƣ một điều tất yếu. Nó xuất phát từ
nhu cầu mua thổ cẩm làm đồ lƣu niệm của khách du lịch tăng nhanh trong
khi để có một sản phẩm thổ cẩm theo đúng theo truyền thống đòi hỏi phải
mất rất nhiều thời gian và công sức. Những ngƣời phụ nữ H'mông, Dao đỏ
thay vì cố sức làm ra các đồ thổ cẩm họ đã nhanh chóng chuyển sang việc đi
thu mua lại các sản phẩm thổ cẩm của những ngƣời hoặc ở xa không có điều
kiện thƣờng xuyên lên chợ bán hàng hoặc không có thời gian, vốn và thói
quen (kinh nghiệm) bán hàng. Sau đó với các sản phẩm thu mua đƣợc, họ
bóc tách từng bộ phận lấy ra những mảng hoa văn và ghép nối thành những
sản phẩm hợp với thị hiếu của khách du lịch nhƣ túi, mũ, áo khoác ba lỗ...
Mặt khác, để đáp ứng kịp thời số lƣợng hàng hoá bán ra phục vụ du
khách, ngƣời H'mông và ngƣời Dao đỏ cũng tự sản xuất các sản phẩm thổ
cẩm nhƣng với thời gian có hạn ngƣời ta đã rút ngắn nhiều công đoạn, lƣợc
bỏ nhiều nét hoa văn truyền thống đòi hỏi sự cần cù và tỷ mỷ. Bên cạnh đó,
một nguồn hàng đƣợc xem là quan trọng đối với ngƣời dân tộc là mua lại
các sản phẩm đã qua "chế biến" của những ngƣời kinh doanh tại chợ (chủ
yếu họ là ngƣời Kinh). Qua khảo sát tại chợ Sa Pa, chúng tôi thấy hầu hết
các cửa hàng tạp hoá bán quần áo và đồ lƣu niệm tại chợ đều có một chiếc
máy khâu. Chiếc máy này đƣợc dùng vào việc may vá lại các đồ thổ cẩm cũ
84
thành các sản phẩm mới có giá trị sử dụng để bán cho khách du lịch hoặc ký
gửi những ngƣời dân tộc bán rong ngoài thị trấn.
Bằng việc gia nhập vào số ngƣời bán rong, quan sát và thu nhập
thông tin, kết hợp với số liệu do cán bộ chính quyền có liên quan của huyện
cung cấp cho thấy, hiện nay ở thị trấn Sa Pa thƣờng xuyên có khoảng trên
dƣới 40 ngƣời bán rong và khoảng gần 30 trẻ em lang thang trong độ tuổi từ
7 - 15 tuổi. Trong số 25 ngƣời bán rong tại thị trấn đƣợc hỏi có 17 ngƣời là
ngƣời H'mông, phần lớn ở độ tuổi từ 30 - 70, có 7 ngƣời là ngƣời Dao đỏ ở
độ tuổi từ 25 - 65 tuổi và duy nhất 1 ngƣời là ngƣời Giáy. Nhƣ vậy, có thể
thấy tỷ lệ ngƣời H'mông đi bán hàng rong chiếm cao nhất, tiếp đến là ngƣời
Dao và một số ít ngƣời Giáy. Và có lẽ cũng không cần phải hỏi nhiều, chỉ
cần quan sát trang phục, lối ứng xử của những ngƣời đến chợ để mua bán, ta
cũng đã thấy sắc màu trang phục của ngƣời H'mông và ngƣời Dao đỏ là sắc
màu chủ đạo trong bức tranh tộc ngƣời tại thị trấn Sa Pa, điển hình là bức
tranh chợ Sa Pa.
Qua điều tra tại thực địa đƣợc biết, số ngƣời đi bán rong và trẻ em
lang thang trên thị trấn chủ yếu đến từ các xã quanh khu vực thị trấn nhƣ xã
Tả Phìn, San Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van và Hầu Thào. Trong số những ngƣời
đi bán rong có thể phân thành ba loại. Số ngƣời đi bán rong quanh năm, số
ngƣời kết hợp vừa đi bán thổ cẩm vừa làm nông nghiệp và số trẻ em bán
hàng rong. Loại thứ nhất, những ngƣời chuyên đi bán hàng rong quanh năm
chủ yếu là các bà già từ 50 tuổi trở lên. Đa số những ngƣời phụ nữ cao tuổi
này có đông con nhiều cháu nên không phải làm công việc đồng áng hay nội
trợ trong gia đình. Bên cạnh đó họ vẫn muốn làm việc để cải thiện và nâng
cao đời sống cho gia đình mình. Khi tiếp xúc với những ngƣời phụ nữ cao
tuổi này chúng tôi nhận thấy một điều rằng các bà vì đi bán hàng rong đã lâu
85
nên không còn cảm thấy e ngại, xấu hổ nhƣ các chị phụ nữ trẻ tuổi khi giao
tiếp hay bán hàng cho khách du lịch. Cảm nhận này của chúng tôi cũng
trùng với nhận xét của các cán bộ xã nơi có nhiều ngƣời dân tộc tham gia
công việc bán hàng trên thị trấn. Do vậy bên cạnh lý do có nhiều thời gian
rảnh rỗi, đây là điều khiến phụ nữ cao tuổi ngƣời H'mông và Dao đỏ đi bán
hàng rong nhiều hơn, thƣờng xuyên hơn là những phụ nữ trung niên hay trẻ
tuổi.
Loại thứ hai, chủ yếu là những phụ nữ trung niên hay trẻ hơn, đã có
chồng, có con. Trong những thời điểm bận rộn ngày mùa, những ngƣời phụ
nữ này thƣờng chỉ đi chợ vào những ngày cuối tuần để tranh thủ mua và bán
hàng hoá của mình và gia đình sản xuất ra. Vào những thời gian nông nhàn,
họ đi bán hàng thổ cẩm thƣờng xuyên hơn. Vào những ngày đi bán hàng phụ
thuộc vào việc nhà của họ ở gần hay xa thị trấn, những ngƣời phụ nữ này có
thể đi và về trong ngày hoặc ngủ lại thị trấn để sáng hôm sau bán hàng tiếp.
Có lẽ vì lợi nhuận thu đƣợc từ việc bán hàng rong ở chợ nhiều, giúp phần
nào cải thiện đời sống gia đình nên đa số các ông chồng sẵn sàng làm các
công việc nội trợ trong gia đình thay cho phụ nữ để vợ của họ có thời gian đi
bán hàng.
So với phụ nữ H'mông, phụ nữ Dao đỏ đƣợc rảnh rang hơn vì không
phải mất thời gian se lanh, dệt và nhuộm vải. Phụ nữ Dao thƣờng mua vải
dệt sẵn ở chợ về thêu hoa văn. Hơn nữa, qua kinh nghiệm thêu hoa văn thổ
cẩm của ngƣời H'mông và ngƣời Dao đỏ cho thấy hoa văn trên thổ cẩm của
ngƣời Dao đỏ có đƣờng nét đơn giản, ít cầu kỳ và dễ thêu hơn hoa văn trên
thổ cẩm của ngƣời H'mông. Mặt khác, do cách thêu của ngƣời Dao đỏ là
thêu ở mặt trái của vải nêu thêu nhanh hơn cách thêu mặt phải vải của ngƣời
H'mông. Tận dụng thời gian rảnh rỗi của mình, phụ nữ Dao đỏ tham gia đi
86
bán hàng rong. Thực tế cho thấy, về mặt số lƣợng ngƣời bán hàng rong, phụ
nữ Dao tuy không nhiều bằng phụ nữ H'mông nhƣng mức độ tham gia lại
thƣờng xuyên hơn. Chỉ tính riêng ở xã Tả Phìn là xã có 2 dân tộc chủ yếu
sinh sống là ngƣời H'mông và ngƣời Dao đỏ, thì thấy số thời gian phụ nữ
Dao đỏ đi bán hàng rong nhiều gấp 4 đến 5 lần phụ nữ H'mông.
Tham gia vào lực lƣợng bán hàng rong trên phố nhƣ một thành phần
quan trọng không thể thiếu vắng đó là số trẻ em lang thang (loại thứ ba). Đa
số các em đến từ các xã Lao Chải, Tả Phìn, Hầu Thào, Tả Van và San Sả
Hồ. Thời gian số trẻ này lƣu lại thị trấn để bán đồ thổ cẩm và các loại hàng
hoá khác từ 3 đến 4 ngày trong 1 tuần. Thƣờng thì cứ đến khoảng thứ 5 hay
thứ 6 hàng tuần, các em từ bản làng của mình mang theo hàng hoá do bố mẹ
sắp sẵn, đi lên thị trấn bán hàng cho đến thứ 2 hoặc thứ 3 tuần sau trở về nhà
để chuẩn bị cho chuyến hàng tiếp theo. Hầu nhƣ thời gian của các em dành
cho việc đi lang thang trên phố, chào hàng và bán hàng cho khách du lịch.
Theo kết quả điều tra, những loại hàng mà những ngƣời bán rong
thƣờng bán, bao gồm: quần áo, dây thắt lƣng, mảnh hoa văn viền cổ áo, túi
và mũ thổ cẩm. Xếp sau hàng thổ cẩm là các sản phẩm dân tộc khác nhƣ đồ
trang sức (vòng tay, vòng cổ,...) các nhạc cụ dân tộc (khèn, sáo)...
Bên cạnh đó, có những ngƣời chuyên bán quần áo thổ cẩm cũ, phẩm
nhuộm, dây vải viền công nghiệp làm phụ liệu để sản xuất hàng thổ cẩm.
Một số ít ngƣời dân tộc bán các sản phẩm rừng nhƣ phong lan, cây cảnh, cây
thuốc chữa bệnh. Một số khác bán các mặt hàng phục vụ cho nhu cầu thiết
yếu trong cuộc sống hàng ngày của ngƣời dân sống ở vùng cao nhƣ dầu cao,
thuốc chữa bệnh, phẩm nhuộm, yếm khăn đội đầu, khăn cô dâu,...
87
Số trẻ em chủ yếu bán các loại vòng tay, nhạc cụ dân tộc nhƣ sáo
trúc, khèn môi. Một số trẻ em lớn tuổi hơn bán các loại mũ, túi thổ cẩm, dây
buộc cổ tay, quần áo... làm từ thổ cẩm.
Trong những loại hàng hoá đƣợc rao bán trên, quần áo thổ cẩm là
loại hàng hoá đƣợc rao bán trên, quần áo thổ cẩm là loại hàng bán chạy nhất;
tiếp đến là mũ và túi xách, khèn, sáo. Đối với trẻ em, loại đồ trang sức (chủ
yếu là vòng tay) và nhạc cụ (chủ yếu là khèn môi) là những thứ bán chạy
nhất.
Kết quả điều tra trên thực địa cho chúng ta thấy các con số sau:
Bảng: Loại mặt hàng bán chạy nhất của những ngƣời bán rong.
Mặt hàng
Của ngƣời lớn bán rong
Của trẻ em bán rong
Tổng số
ngƣời
(20)
% so với
tổng số
ngƣời đƣợc
phỏng vấn
Tổng số
ngƣời (20)
% so với tổng
số ngƣời
đƣợc phỏng
vấn
Quần áo thổ cẩm
10
50%
1
5%
Quần áo cũ
1
5%
-
-
Mũ
8
40%
2
10%
Túi
6
30%
1
5%
Khèn, sáo
3
15%
14
70%
Vòng tay (đồ trang 4
sức)
20%
13
65%
Nguồn: Số liệu điều tra tại thị trấn Sa Pa năm 2001.
Tuy nhiên, các con số trên đây luôn luôn dao động và biến đổi bởi nó
phụ thuộc vào nguồn hàng và mức độ bán ra của những ngƣời bán rong.
Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng không thể không nhắc tới đó là sở
thích mua hàng của từng loại khách du lịch. Giữa khách du lịch trong nƣớc
88
và khách du lịch ngoại quốc có sự khác nhau về số lƣợng (mức mua) và sự
phong phú trong chủng loại hàng hoá lựa chọn. Thực tế cho thấy, khách
nƣớc ngoài thƣờng mua hàng của ngƣời bán rong nhiều hơn, với số lƣợng
lớn hơn khách du lịch trong nƣớc. Trong tổng số 26 trẻ em đƣợc hỏi thì có
24 em (92,3%) chủ yếu bán cho khách nƣớc ngoài, 16 em (61,5%) có khách
trong nƣớc. Phần lớn các em đều có một ý kiến chung nhất về số lƣợng và
mức mua của khách du lịch nƣớc ngoài nhiều hơn hẳn so với khách du lịch
trong nƣớc. Vậy khách du lịch trong nƣớc thƣờng mua hàng lƣu niệm ở đâu.
Qua khảo sát tại thị trấn thấy rằng khách du lịch Việt nam thƣờng hay mua
sắm đồ lƣu niệm tại các quầy hàng trong chợ do ngƣời Kinh bán, vì ở đó họ
đƣợc chọn lựa nhiều mặt hàng hơn. Rất ít khách du lịch trong nƣớc mua
hàng thổ cẩm ở ngƣời bán rong, có chăng là mua vòng đeo tay, mũ, túi xách
và khèn môi.
Sức mua của du khách có ảnh hƣởng lớn đến mức thu nhập của
ngƣời bán rong tại thị trấn. Thu nhập bình quân một tuần của một ngƣời bán
rong có thể giao động khoảng 10.000đ tới 200.000đ/1 tuần, tƣơng đƣơng với
50.000đ đến 800.000đ/1 tháng. Theo lời của những ngƣời phụ nữ bán rong
khi đƣợc hỏi tại sao lại có sự chênh lệch lớn nhƣ vậy trong mức thu nhập
tháng của họ thì thấy rằng khả năng bán đƣợc hàng cho khách rất không ổn
định. Có những ngày, thậm chí có tuần họ chỉ bán đƣợc 1 đến 2 sản phẩm
thậm chí là không bán đƣợc thứ gì. Tuy nhiên, cũng có khi may mắn gặp
đƣợc khách mua, họ có thể lãi tới vài trăm nghìn đồng mỗi tuần. Một phụ nữ
H'mông ở xã Tả Phìn cho biết họ có thu nhập trung bình khoảng 30.000đ/1
tuần, nhƣng cũng có tuần chị thu lãi tới 300.000đ. Một phụ nữ Dao cũng ở
xã Tả Phìn nói: "Mùa hè, tôi bán đồ trang sức, mũ, túi, lãi trung bình từ
30.000 đến 50.000đ/1 tuần, nhƣng cũng có khi tôi bán đƣợc cả khăn cô dâu,
89
khăn đội đầu, quần áo thổ cẩm, tôi lãi tới 500.000đ, nhƣng ít khi bán đƣợc
nhƣ vậy lắm".
Qua thực tế phỏng vấn, những ngƣời bán rong tại thị trấn về nguồn
thu nhập từ việc bán hàng đối với tổng thu nhập gia đình, đa số họ cho biết
nó có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của họ. Một số ít ngƣời cho rằng
nó có mức quan trọng vừa phải và một vài ngƣời cho là ít quan trọng. Bên
cạnh đó có một số ngƣời dấu diếm mức thu nhập và không trả lời khi đƣợc
hỏi cảm nghĩ của họ về việc đi bán hàng rong.
Đối với trẻ em bán rong trên phố, đa số các em đều nói rằng đi bán
hàng là để phụ giúp bố mẹ. Trong số 20 em đƣợc hỏi, có 16 em nói rằng số
tiền kiếm đƣợc của em có mức quan trọng vừa phải đối với gia đình, 3 em
nói nó ít quan trọng chủ yếu là do các em thích đi bán thì bố mẹ cho đi, 1 em
cho rằng rất quan trọng đối với gia đình của em.
Có thể sơ bộ nêu những con số về mức thu nhập trung bình trong 1
tuần của ngƣời bán rong nhƣ sau:
Bảng: Thu nhập trung bình 1 tuần của ngƣời bán rong.
Đồng/tuần/ngƣời
Ngƣời
H'mông
Ngƣời
Dao
10.000đ - 25.000đ
9
35.000đ - 55.000đ
Ngƣời
Giáy
Tổng số
(26 ngƣời)
%
1
10
38,5
5
3
8
30,8
100.000đ - 150.000đ
2
2
5
19,2
180.000đ
3
3
11,5
1
Nguồn: Số liệu điều tra thực tế năm 2001.
Số tiền thu đƣợc từ bán hàng đƣợc sử dụng trƣớc hết cho nhu cầu thiết
yếu trong cuộc sống hàng ngày của ngƣời H'mông và ngƣời Dao. Thực tế
trong 25 ngƣời đƣợc hỏi thì có 24 ngƣời bán rong nói là họ dùng tiền để mua
90
gạo, dầu thắp sáng, mắm, muối .v.v... trong đó phần lớn là để mua lƣơng
thực (gạo), 10 ngƣời nói để dành tiền tiết kiệm, 4 ngƣời nói để tiền mua
phân bón ruộng, 1 ngƣời để tiền thuê một ngƣời làm ruộng thay mình. Ngoài
ra có khá nhiều ngƣời dành một phần các khoản thu đƣợc đó để mua quà cho
con hay mua sắm các vận dụng khác trong gia đình.
Đối với số trẻ em đi bán rong, số tiền kiếm đƣợc của các em có ý
nghĩa nhất định đối với kinh tế gia đình. Trong 26 em đƣợc hỏi có 23 em nói
rằng đƣa tất cả tiền kiếm đƣợc ở thị trấn cho bố mẹ, 17 em chi một phần tiền
để mua những thứ cần thiết hàng ngày của các em, 14 em nói để dành tiền
tiết kiệm, một số rất ít nói để mua quần áo đẹp hay bánh kẹo...
- Hoạt động dẫn đƣờng cho khách du lịch (dịch vụ leo núi Phan xi
păng):
Loại hình này ít phổ biến hơn nhƣng lại đem lại thu nhập cao hơn cho
những ngƣời dân tộc thiểu số. Phần lớn đối tƣợng khách du lịch tham gia
vào loại hình này là ngƣời nƣớc ngoài - những ngƣời tới Sa Pa vì mục đích
du lịch thể thao, du lịch sinh thái, muốn đƣợc leo núi, chinh phục đỉnh Phan
xi păng - đỉnh núi cao nhất của Việt Nam. Không ai khác ngoài ngƣời
H'mông - những cƣ dân sinh sống lâu đời trên vùng núi này là những ngƣời
dẫn đƣờng cho khách du lịch. Bởi hơn ai hết những ngƣời H'mông ở đây
nắm chắc địa bàn, thông thạo địa hình, có kinh nghiệm trong việc leo núi.
Họ đƣợc các chủ khách sạn, những ngƣời kinh doanh nhà hàng, hƣớng dẫn
viên du lịch ngoại tỉnh thuê làm ngƣời dẫn đƣờng và khuân vác các vận
dụng cho du khách. Nói chung, đây là công việc nặng nhọc và vất vả nhƣng
bù lại, những ngƣời dẫn đƣờng này đƣợc trả thù lao với mức cao hơn hẳn
mức thù lao của các công việc khác, thậm chí nếu đem so sánh với mức thu
nhập chung của ngƣời dân ở địa phƣơng thì đây đƣợc xem nhƣ khoản thu
91
đặc biệt của họ. Qua phỏng vấn đƣợc biết, trung bình thu nhập của những
ngƣời H'mông dẫn đƣờng này khoảng 100.000đ/1 ngày và có thể hơn nữa.
Nhƣ vậy, với mỗi chuyến đi kéo dài từ 3 đến 5 ngày, họ thu đƣợc tối thiểu từ
300.000đ - 500.000đ.
Tuy vậy, số ngƣời H'mông tham gia vào loại hình dịch vụ này không
nhiều và mang tính chất chuyên nghiệp, chỉ vài ba ngƣời trong 1 xã, chủ yếu
ở các xã San Sả Hồ, Lao Chải và Tả Van. Thông thƣờng, mỗi chủ khách sạn,
nhà hàng, hay các hƣớng dẫn viên du lịch tại Sa Pa đều thiết lập mối quan hệ
chặt chẽ với một số ngƣời dân tộc nhất định nào đó để làm việc này.
Một nguyên nhân khác khiến cho số ngƣời dân tộc tham gia vào hoạt
động này không nhiều bởi loại hình du lịch leo núi ở Sa Pa vẫn chƣa thực sự
phát triển, số du khách có nhu cầu leo núi không nhiều. Bên cạnh đó, chính
quyền huyện Sa Pa cho đến nay vẫn chƣa triển khai cụ thể quy hoạch cho
tuyến du lịch chinh phục đỉnh Phan xi păng.
Có thể nói rằng, do mức thu nhập từ dịch vụ này cao nên ở những gia
đình có ngƣời dẫn khách đi núi sau một thời gian đều trở nên khá giả hơn so
với những gia đình khác trong bản. Những đánh giá nhận xét của chính
quyền xã và những ngƣời dân khác trong bản cho ta thấy rõ đƣợc sự chênh
lệch về mức sống giữa các hộ gia đình trong cùng một bản nhƣng với hai
hoạt động khác nhau. Một là, số hộ không có ngƣời dẫn khách leo núi với
một số hộ có ngƣời dẫn khách leo núi. Có thể dẫn ví dụ trƣờng hợp ở thôn
Cát Cát, xã San Sả Hồ có 2 ngƣời đƣa khách du lịch leo núi Phan xi păng từ
năm 1995 đến nay. Nếu nhƣ từ 1995 trở về trƣớc, cả hai gia đình họ đều
nghèo, thiếu ăn, nhà cửa lụp xụp, thì chỉ qua mấy năm đi dẫn khách đến nay,
đời sống gia đình họ đƣợc cải thiện, không những đủ ăn mà cả hai còn xây
92
đƣợc nhà đẹp, lợp ngói xi măng, mua sắm đƣợc nhiều tiện nghi trong gia
đình...
- Hoạt động mở quán bán hàng:
Trong các tộc ngƣời ở Sa Pa, đặc biệt là ngƣời H'mông và ngƣời Dao
đỏ, việc mở quán bán hàng phục vụ khách du lịch tại các thôn bản trên các
tuyến du lịch là một hoạt động mới đƣợc phát triển trong vài năm gần đây.
Xuất phát từ việc đáp ứng mọi nhu cầu đột xuất của khách từ các sản phẩm
tiêu dùng, chủ yếu là đồ giải khát, bánh kẹo hoặc một vài vật phẩm sinh hoạt
hàng ngày khác. Tuy nhiên, số lƣợng hộ gia đình tham gia vào dịch vụ này
còn hạn chế, phần lớn là những hộ có lợi thế nằm trên các tuyến du lịch. Với
mức độ tiêu thụ sản phẩm thấp, (vì chủ yếu khách du lịch thƣờng chuẩn bị
sẵn đồ ăn, thức uống cho mỗi chuyến đi và chỉ mua thêm khi có nhu cầu
phát sinh hoặc có sự cố bất ngờ), nên mức thu nhập từ loại hình này không
cao.
- Các hình thức cho khách du lịch vào thăm và nghỉ qua đêm ở hộ
gia đình:
Ở những hộ gia đình ngƣời H'mông hoặc ngƣời Dao đỏ thƣờng xuyên
có khách du lịch ghé thăm, phần lớn khách du lịch thƣờng có hình thức tặng
quà hoặc tiền cho các gia đình. Qua việc phỏng vấn số khách du lịch đã từng
vào thăm nhà ngƣời dân tộc đƣợc biết, có rất ít khách Việt Nam và khách
nƣớc ngoài cho quà và cho tiền những hộ gia đình này (2/10 khách Việt
Nam và 4/15 khách nƣớc ngoài). Các món quà thƣờng chỉ là gói bánh hay
gói kẹo, rất ít ngƣời cho tiền. Bởi tính không thƣờng xuyên và với mức độ
hạn chế nên những món quà hoặc tiền của du khách trả cho các hộ gia đình
ngƣời dân tộc thiểu số không thể giúp ích nhiều trong việc cải thiện cuộc
sống hàng ngày của ngƣời dân.
93