1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÈ NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.47 KB, 113 trang )


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÈ NGƯỜI VIỆT

1.1 Định nghĩa vè người Việt

Có nhiều ý kiến khác nhau khi định nghĩa về vè. Nhìn chung nó tương đối

phong phú và đa dạng. Trong phần này, chúng tôi xin được nêu một số định

nghĩa và quan niệm chính về vè.

- Theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, vè là chuyện khen

chê có ca vần và việc sáng tác vè là đặt chuyện khen chê có ca vần.

- Theo Từ điển tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê chủ biên, vè là “Bài văn

vần dân gian kể lại chuyện người thật, việc thật để ca ngợi hay chê bai, châm

biếm”. [35, tr.1109]

- Theo tác giả Đinh Gia Khánh “vè là một thuật ngữ văn học dân gian có

liên quan đến từ “vè” trong “vần vè”. Vè có nghĩa là lời nói có vần”. [27,

tr.235]

- Theo tác giả Nguyễn Văn Hầu “vè là một thể văn vần, dùng để châm

biếm một thói dởm, nết hư hoặc thuật lại một sự trạng khác thường xảy ra

trong một thời, một vùng với tiết điệu và lời văn cực kỳ giản dị, đặc biệt bình

dân”. [6, tr.18]

- Tác giả Đinh Gia Khánh nhận xét: “vè là một hình thức kể chuyện bằng

văn vần, một thứ báo chí truyền miệng, một bước quá độ từ ngôn ngữ hằng

ngày sang ngôn ngữ thơ ca, thích hợp với những yêu cầu kể chuyện”. [17,

tr.86]

- Các tác giả Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân

trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập 1 (phần văn học dân gian)

cũng đồng quan điểm trên và phân tích sâu hơn: “Danh từ vè không phải là

tiếng chữ Hán mà là tiếng thuần Việt, chắc hẳn nó bắt nguồn từ tiếng nói năng

của dân tộc. Trong ngôn ngữ Việt Nam, tiếng “vần” thường thi đôi với tiếng

“vè”. Nhân dân ta thường gọi những câu nói có vần là những câu nói có “vần



14



vè”. Chắc danh từ vè được rút ra từ đấy để chỉ một thể loại văn học dân gian

có những đặc điểm riêng biệt khác với các thể loại văn học dân gian khác”.

Trên đây là một số định nghĩa mà chúng tôi đã sơ bộ thâu tóm được. Các

tác giả tuỳ theo góc độ và cái nhìn của mình mà nhấn mạnh mặt này hay mặt

khác của vè. Chính những định nghĩa về vè đã giúp chúng tôi rất nhiều trên

đường đi tìm hiểu các cách phân loại và tính chất của nó.

1.2 Phân loại vè người Việt

Thể loại vè từ lâu đã được một số nhà nghiên cứu văn học dân gian chú ý

và họ bước đầu đã đưa ra những cách phân loại.

Trong Văn học dân gian Việt Nam, Hoàng Tiến Tựu, tập 2, chia vè thành

hai loại chính:

- Vè thế sự,

- Vè lịch sử.

Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên trong Lịch sử văn học Việt Nam - Văn

học dân gian, tập 2 cũng chia vè thành hai loại:

- Vè thế sự: Lấy đề tài trong sinh hoạt gia đình và sinh hoạt xã hội của

nhân dân. Tính thời sự và tính địa phương của vè được thể hiện rõ trong vè

thế sự. Một số bài có tính chất ca ngợi. Nhưng xu hướng chung là trào phúng,

đả kích.

- Vè lịch sử: Lấy đề tài ở những sự kiện lịch sử dân tộc, thường vượt ra

ngoài phạm vi địa phương, được phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi trong nước.

[27, tr.238]

Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân trong: Giáo

trình lịch sử văn học Việt Nam (tập 1, phần Văn học dân gian) chia vè thành

hai loại:



15



- Loại lấy đề tài lịch sử: Đó là những cuộc khởi nghĩa của nông dân,

những phong trào văn thân, cần vương (vè vợ ba Cai Vàng, vè bà Thiếu phó,

vè Đề Thám, vè Thất thủ kinh đô).

- Loại lấy đề tài xã hội: Như chuyện đi phu, đi lính, chuyện ma chay cưới

hỏi, chuyện trai chê vợ, gái rẫy chồng, chuyện bão lụt đói kém, chuyện làm

đình, làm đám…(loại vè này chiếm một số lượng khá lớn). [10, tr.51]

Ngoài ra xét về thể thơ, các tác giả đã chia vè thành ba loại:

- Vè lục bát: Phổ biến khắp các địa phương trong toàn quốc

- Vè nói lối: Các địa phương đều có, nhưng phổ biến nhất ở vùng Bình

Trị Thiên và Nam Trung Bộ.

- Vè hát dặm (một loại riêng của vùng Nghệ Tĩnh). [10, tr.52]

Theo ý kiến của nhà nghiên cứu Vũ Tố Hảo thì các cách phân loại trên

đều có những điểm chưa hợp lý. Vậy cũng không thể căn cứ theo thể thơ để

phân loại vè được.

Nếu phân loại như trên thì nó có tính chất khái quát quá. Vì thực ra bất cứ

một thể loại văn học nào cũng lấy đề tài từ cuộc sống mà trong đó có đề cập

tới vấn đề về lịch sử và xã hội. Cánh phân loại này sẽ dẫn đến tình trạng

những bài vè nào liên quan đến lịch sử thì xếp vào vè lịch sử, còn tất cả

những bài vè khác đều xếp vào vè thế sự. Trong khi đó ở thể loại vè có rất

nhiều bài khó mà tách ra được đâu là vè lịch sử, đâu là vè thế sự. Hơn nữa, ở

những bài vè được các tác giả gọi là vè lịch sử và vè thế sự này thì tính chất

của chúng cũng giống nhau. Đó là tính thời sự, tính địa phương, tính châm

biếm đả kích (hoặc gọi là tính chiến đấu). Chẳng thế mà tác giả Nguyễn Văn

Hầu đã cho hai loại này vào một loại những bài vè có tính chất lịch sử. Còn

tác giả Thuần Phong lại gộp hai loại này vào một loại gọi là vè thời sự.

Bên cạnh đó có một số loại vè khá phổ biến mang những đặc điểm và nội

dung tương đối khác biệt như: vè trẻ em, vè phong vật, vè nghề nghiệp còn vè

tâm sự lại không được các tác giả chú ý đề cập đúng mức.



16



Nguyễn Văn Hầu chia vè thành ba loại:

- Loại trẻ con hoặc người lớn đặt ra để nói chơi trong lúc vui đùa. Loại

này không có ý nghĩa hoặc có rất ít ý nghĩa. Thí dụ: vè nói ngược, vè con Sáo.

- Những bài vè ngụ ý chế giễu, mỉa mai chung một hạng người, một tệ tục

hay một thói hư tật xấu. Thí dụ như: vè đánh bạc, vè ông tiên chỉ cúng thần,

vè tranh miếng thịt lành, vè chê gái lấy chồng chệch, vè mụ đội chửa hoang...

- Những bài vè có tính chất lịch sử như: vè thất thủ kinh đô, vè cháy chợ,

vè trời hạn, vè nước lụt, vè kinh tế. [10, tr.50]

Tác giả Nguyễn Văn Hầu nêu ra ba loại vè trên cũng không thâu tóm

được các loại vè hiện có ở nước ta như: vè nghề nghiệp, vè tâm sự, vè phong

cảnh. Tác giả tách những bài vè có ngụ ý chế giễu, mỉa mai thành một loại

khác biệt với những bài có tính chất lịch sử vì thực ra trong những bài vè có

tính chất lịch sử ấy thì tính châm biếm, đả kích, mỉa mai chế giễu cũng khá

đậm. Chẳng hạn như bài “Vè Khâm sai”, bài này có tính chất lịch sử vì đã ghi

lại được một trang sử trong giai đoạn chống Pháp, gắn liền với bọn vua quan

đầu hàng làm tay sai cho Pháp của nhân dân ta thời bấy giờ. Nhưng đồng thời

nó cũng có tính chất châm biếm, phơi bày thực chất xấu xa của đội quân bù

nhìn Đồng Khánh bằng những chi tiết rất hài hước. Người dân nêu lên một sự

kiện lịch sử nhưng đồng thời cũng biểu lộ thái độ của mình hoặc ca ngợi, hoặc

đả kích.

Tác giả Thuần Phong chia vè làm bốn loại không theo một nguyên tắc

phân loại nào:

- Vè nhi đồng (đánh thẻ và các thứ rau)

- Vè phong tục (vè ông Địa)

- Vè nghề nghiệp (vè đánh chão)

- Vè lịch sử (vè Khâm sai, năm canh điểm mục ca). [10, tr.50]

Ở đây tác giả mới kể ra tên bốn loại vè chính. Mặt khác, ông lại quan

niệm: vè phong tục là những bài vè có tính chất trào phúng, châm biếm.



17



Chẳng hạn tác giả đã dẫn bài vè ông Địa và cho rằng đó là một bài vè phong

tục:

“…Bốn lớp bột sam

Hai chục cánh cam,

Để đem tráng miệng

Giày cườm thêu kim tuyến

Sắm cho Địa một đôi

Sắm ống, sắm nồi

Đặng cho Địa hút…”

Thực ra đó chỉ là một bài vè chế giễu một hạng người chứ không hề có

tính chất phong tục tập quán gì cả.

Đồng thời, tác giả lại quan niệm vè thời sự chỉ là những bài vè lịch sử.

Thực ra tính thời sự của vè còn rộng hơn nhiều. Tác giả sắp xếp như vậy đã

hợp lý chưa? Đấy là những vấn đề chúng ta còn cần phải bàn lại. Ngoài ra còn

có những bài vè như những câu chuyện xảy ra trong làng, ngoài xã, những

tâm sự của người gái góa, trẻ mồ côi thì xếp vào phần nào?

Đỗ Bình Trị trong Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, gần đây nhất

(1991) đã chia vè thành bốn loại:

- Vè lịch sử (kể chuyện nước)

- Vè thế sự (kể chuyện làng)

- Vè than thân (kể chuyện mình)

- Vè cho trẻ em (kể chuyện chim, cá, hoa, quả, gọi bê, gọi nghé...).

Cách phân loại của tác giả Đỗ Bình Trị tuy có điểm hợp lý hơn, nhưng

vẫn còn nhiều điều phải bàn thêm.

Vũ Tố Hảo dựa theo đặc trưng, tính chất, nội dung cũng như hình thức

của từng loại vè mà chia vè thành ba loại chính:

- Vè nhi đồng: Gồm những bài do nhi đồng sáng tác hay do người lớn

sáng tác cho nhi đồng, nhằm phục vụ cho vui chơi giải trí, ít có ý nghĩa hoặc



18



đã mất ý nghĩa hiện đại chỉ bảo tồn ý nghĩa cổ và chỉ chú ý đến vần nhịp (vè

đánh thẻ, đi trốn đi tìm, thả đỉa ba ba, dung dăng dung dẻ, rồng rắn lên

mây...). Và những bài vè phục vụ cho việc giáo dục trẻ em như: vè con ếch,

vè tam thiên tự, nhị thập tứ hiếu…

- Loại vè không gắn với vấn đề thời sự xảy ra trong xã hội gồm có:

+Vè phong vật, phong cảnh (các thứ cây, thứ rau, thứ cá, thứ chim, thứ

hoa quả, phong cảnh làng quê, cái đình…).

+Vè nghề nghiệp (làm cói, đánh chão, cào hến, hái dâu nuôi tằm, trồng

bông, kể công việc nhà nông…).

+Vè giáo huấn (lời người mẹ khuyên con gái trước khi lấy chồng, con trai

trước khi hỏi vợ, khuyên con ăn ở có đạo đức, có trung có hiếu…).

+Vè tâm sự (tâm sự người đi ở, người làm lẽ, người mồ côi, gái goá, cô

gái bị ép duyên…).

Loại vè này nặng về tính chất trữ tình, thường được truyền tụng một cách

rộng rãi và lâu dài. Theo thống kê của Vũ Tố Hảo thì những bài vè này hầu

như đều không có tên tác giả, không có thời điểm, không ghi địa điểm và có

nhiều dị bản, không gian lưu truyền đã vượt ra ngoài phạm vi địa phương. Nó

không gắn với một vấn đề thời sự nào xảy ra trong xã hội. Nó không phải

sáng tác kịp thời mà được lưu truyền từ đời này qua đời khác và ít có tính

châm biếm, đả kích. Do vậy tính thời sự gần như không có.

- Loại vè gắn liền với một vấn đề thời sự xảy ra trong xã hội gồm có:

Những vấn đề thời sự xảy ra trong làng xã (vỡ đê, mất mùa, đói kém, làm

đình, đắp đường, đi phu, anh đánh bạc, anh chàng nghiện...). Ở đây tính chất

tròa phúng, châm biếm đả kích được thể hiện rõ những vấn đề thời sự xảy ra

trong làng xã có liên quan đến một vấn đề lịch sử nào đấy (vè thất thủ kinh

đô, vè Quan Đình, vè Đề Thám, vè cụ Phan...). Ở những loại vè này chất liệu

lịch sử được chú ý. [10, tr.53]



19



Với cách phân loại như trên, Vũ Tố Hảo cho rằng ba loại trên đã thâu tóm

được tất cả các loại vè Việt Nam. Ở mỗi loại vè, có thể tìm thấy những đặc

trưng, tính chất riêng biệt. Và qua đây, có thể hiểu một cách khái quát toàn bộ

nội dung và nghệ thuật của thể loại vè Việt Nam.

Bảng 1.1: Thống kê cách phân loại vè của một số tác giả

T

T



Tác giả



1



Hoàng Tiến Tựu



2



Đinh Gia Khánh,

Chu Xuân Diên

Bùi Văn Nguyên,



3



Số

loại

2



2



2



Nguyễn Ngọc Côn,

Nguyễn Nghĩa Dân



Tên loại

- Vè thế sự

- Vè lịch sử

- Vè thế sự

- Vè lịch sử

- Loại lấy đề tài lịch sử

- Loại lấy đề tài xã hội

- Vè lục bát



3



- Vè nói lối

- Vè hát dặm

- Loại trẻ con hoặc người lớn đặt ra để



4



Nguyễn Văn Hầu



3



nói chơi trong lúc vui đùa

- Những bài vè ngụ ý chế giễu, mỉa mai

- Những bài vè có tính chất lịch sử

- Vè nhi đồng

- Vè không gắn với vấn đề thời sự xảy



5



Vũ Tố Hảo



3



ra trong xã hội

- Vè gắn liền với một vấn đề thời sự xảy

ra trong xã hội



6



Đỗ Bình Trị



4



- Vè lịch sử

- Vè thế sự



20



- Vè than thân

- Vè trẻ em

- Vè nhi đồng

7



Thuần Phong



4



- Vè phong tục

- Vè nghề nghiệp

- Vè lịch sử



Tóm lại: Khi nghiên cứu phân loại vè, các tác giả có cách phân loại khác

nhau. Có tác giả dựa vào thể thơ, có tác giả dựa vào đặc điểm vùng miền, có

tác giả dựa vào chủ đề… mà chia vè thành nhiều loại khác nhau.

Còn ở đây, chúng tôi tiếp thu cách phân loại vè dựa trên cơ sở nội dung

các bài vè mà chia làm hai loại:

- Vè thế sự: Miêu tả cụ thể, sinh động, trực tiếp đời sống nhân dân và xuất

hiện do nhu cầu phản ánh hiện thực một cách nhạy bén và kịp thời các sự kiện

thường ngày của đời sống với xu hướng chung là trào phúng. Nhiều bài vè có

nội dung đả kích những hành vi phương hại đến phong tục tập quán, những tệ

nạn xã hội và những hiện tượng không bình thường trong đời sống nhân dân.

- Vè lịch sử: Là sự kết tinh của hai yếu tố chân thật lịch sử và hư cấu thần

kỳ trong giai đoạn lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa của nông dân và

phong trào đấu tranh chống đế quốc.

Ngoài ra còn có vè kể hoa, kể chuyện về loài vật, cây trái, sự vật…

1.3 Tính chất của vè người Việt

1.3.1 Tính thời sự

Vè mang tính thời sự đặc trưng bởi các sự kiện trong quá khứ ít đuợc vè

quan tâm mà vè thường xuất hiệ tức thời, nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện

rồi truyền đi để gây dư luận. Phần lớn những bài vè xuất hiện để đáp ứng việc

phản ánh dư luận quần chúng trong một thời điểm nhất định. Người ta thường



21



quên đi bài vè khi sự việc được phản ánh mất đi tính thời sự mà thay vào đó là

những bài vè hướng về những sự kiện mới. Bài vè “Làng đào giếng” là một

minh chứng cho điều đó:

“…Giếng đào ra uống nước,

Cho con cháu muôn đời,

Khỏi mang tiếng người cười,

Khỏi bẽ cùng sáu xóm.

Tiết xuân ra còn đượm,

Ngày mùng sáu ngày lành.

Đàn em với đàn anh,

Ta quyết đào nỏ tiếc.

Giừ đào ra mới biết,

Trên đất rẻo một vòng,

Giữa mắc lớp đá ong,

Xóm ta rày ngao ngán.

Giếng đào ra còn cạn,

Cuốc thuổng lại cầm tay,

Chạy ra mượn đồ tây,

Mượn sà beng, vên, vét.

Mượn cà cà, ven vét.

Xóm ta cũng quyết,

Con trai cũng vững vàng,

Sắp ra đứng hai hàng,

Đá ong lên lớp lớp,



22



Đá bàn lên lớp lớp.

Vui vầy cười cợt,

Kẻ nói chuyện nay mai,

Người nói chuyện khôi hài,

Quân reo hò rôm rả,

Chuyện nói cười rân rả….”

(Làng đào giếng, tr.431, tập 13)

Hơn nữa, vè không kể chuyện theo lối bàng quan mà bộc lộ thái độ của

nhân dân trước sự việc được phản ánh như: châm biếm nạn thách cưới, thói

lười biếng, khoác loác như:

“Nghe vẻ nghe ve,

Nghe vè lác Huyền

...

Áo quần không giặt,

Mình mẩy lấm lem,

Cặp mắt tèm hem,

Chân mày trắng xác.



Trong mình có lác,

Ngoài miệng có duyên.

Ở làng An Điền,

Kiếm ăn cũng được.

Lưng dài thậm thượt,

Làm biếng như tinh.

Gần tới lễ đình,

Nằm lì nhà đãi.

Ăn rồi cứ gãi,



23



Công việc chẳng làm.

Mình một xác phàm,

Vợ con không có.”

(Vè lác Huyền, tr.617, tập 13)

Tính thời sự còn bộc lộ thái độ căm ghét bọn quan lại đục khoét mặc dân

tình khốn khổ, ca thán về nạn thuế má, phu phen, cờ bạc. Bài vè sau đề cập

đến một số bọn tai to mặt lớn của mấy làng ở Quỳnh Lưu đã làm hại dân bằng

cách gá cờ gá bạc. Những cái bỉ ổi của bọn quan Kiểm, quan Điển, ông Tuần,

ông Chánh, thầy Đề, thầy Thông được tác giả bài vè phê phán với một thái độ

nghiêm khắc và mỉa mai:

“…Ruộng vườn bán hết,

Đến chết vẫn không chừa.

Được, rồi lại thua

Của người chưa dễ xúc.

Ai bày ra chẵn lẻ,

Tiền xóc đĩa cũng êm.

Đánh cả ngày lẫn đêm,

Đầy một sân quan Kiểm.

Đầy một nhà quan Kiểm.

Bắt ra mà điểm:

Có anh Chiến, anh Xương;

Có quan Điển, quan Hường

Ông Tú Văn cũng có

Bà Tú Văn cũng có...”

(Quan Kiểm đánh bạc, tr.638, tập 13)



24



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

×