Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.47 KB, 113 trang )
Bên cạnh thủ pháp chơi chữ thì việc sử dụng yếu tố tục đã trở thành một
trong những biện pháp cần thiết để làm bật lên tiếng cười. Ở đây chúng tôi
bàn tới việc sử dụng yếu tố tục với tư cách là một phương tiện châm biếm, đả
kích. Để tránh hiểu sai vấn đề chúng ta cần phân biệt cái tục với sự tục tĩu, cái
tục với cái dâm…
Một tác phẩm văn học bất kỳ, dù truyền miệng hay văn học thành văn,
nếu hàm chứa trong nó một sự tục tĩu, thô kệch…tác phẩm không có tác dụng
gây cười mà đi ngược lại chức năng thẩm mỹ, giáo dục của văn học, mất tính
nghệ thuật. Cái tục trong văn học phải khác với cái tục trong đời thường. Ở
đây tính từ “tục” đã được các nhà ngôn ngữ học định nghĩa như sau: “là thô
bỉ, tỏ ra thiếu lịch sự, thiếu văn hoá (nói tục, chửi tục, ăn tục nói phét…)” [35,
tr.1062]. Cái tục vốn rất gần với người lao động vì họ sống rất tự nhiên, mộc
mạc, ít chịu ảnh hưởng của nho gia như tầng lớp thống trị những kẻ bề ngoài
vẫn vờ coi sinh hoạt tự nhiên của con người là thấp hèn.
Vậy yếu tố tục được các tác giả dân gian sử dụng như thế nào? Hãy đặt
nó bên cạnh cái dâm: tính ham muốn thú nhục dục quá độ hoặc không chính
đáng. Nên hiểu cái dâm mang trong mình nó sự khêu gợi, kích thích con
người ta nghĩ đến chuyện sinh lý và cao hơn là hành động. Những văn hoá
phẩm đồi truỵ (sách, báo, băng hình…) đều thuộc loại này.
2.3.2 Sử dụng yếu tố tục trong văn học dân gian
Sử dụng yếu tố tục trong ca dao
Khi nói tới “cái tục” trong ca dao, chúng tôi thấy nó khác hẳn “cái dâm”.
Nếu cái dâm hướng tới yếu tố sinh lý nhằm kích thích bản năng thú tính thì
cái tục chỉ lấy yếu tố sinh lý làm phương tiện. ở khía cạnh này, chúng tôi chỉ
đề cập tới cái tục trong “ca dao cười” mà tiến sĩ Phạm Thị Hằng đã nghiên
cứu. Cái tục trong ca dao cười tuy có tục mà không có dâm, nó giúp giải toả
những điều cấm kỵ trong khuôn phép của lễ giáo phong kiến. Cái tục được
60
xuất hiện trong “ca dao cười” rất phong phú và đa dạng. Có khi nó rải ngay từ
đầu đến cuối bài, có khi xuất hiện đột ngột ở cuối bài hoặc có khi chỉ xuất
hiện hình bóng trong sự liên tưởng của người đọc, người nghe. Khi cái tục
xuất hiện đột ngột ở cuối thì nội dung của nó còn mở rộng ra các lời nói, các
hành động, cử chỉ thiếu lịch sự. Có khi chỉ là sự châm chọc đối với kẻ “đi ô
chẳng biết cầm ô”, cái tục xuất hiện trong sự so sánh “ô” với “váy bà đồ”.
Người ta phải bật cười bởi cách so sánh quá táo bạo giữa “ô”, vật đội đầu
dùng để che mưa, che nắng của đấng nam nhi quân tử thời ấy, với “váy”, một
vật che chỗ kín của người đàn bà:
“Đi ô chẳng biết cầm ô,
Thà rằng đội váy bà đồ cho xong.”
Sự xuất hiện về cuối của yếu tố tục trong bài ca dao trên làm người ta ngỡ
ngàng đột ngột, vì thế tiếng cười càng thú vị hơn.
Trong trường hợp cái tục xuất hiện từ đầu bài, cách biểu đạt của nó cũng
đa dạng không kém, những sinh hoạt đời thường đã được đưa vào ca dao để
đùa vui. Có khi chỉ là một hành động đòi “tòm tem” của anh chồng.
“Đương khi lửa tắt, cơm sôi
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem.”
Bên cạnh đó, cái tục còn xuất hiện hình bóng trong sự liên tưởng của
người đọc, người nghe. Đối tượng phản ánh của cái tục ở đây hướng tới cái
sinh thực khí và quan hệ giao phối là chủ yếu. Những bài ca dao loại này đều
có hai nghĩa: nghĩa thực và nghĩa liên tưởng. Có khi nó nói một cách rất hình
ảnh như “lò đúc trẻ” hoặc thể hiện qua một câu đố tục mà rất tế nhị để tìm ra
nơi “nắng không khô”, “mưa không ướt”.
Trong văn học trung đại Việt Nam, người chịu ảnh hưởng của thủ pháp
này đó chính là nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Cách nói lái, những từ ngữ nôm na,
những tiếng chửi và hình ảnh tục đã ùa vào thơ bà một cách đậm đặc. Tiếng
61
cười trong thơ Hồ Xuân Hương quả là tiếng cười của nhân dân lao động và
dường như bà đã tiếp thu điều đó từ những bài ca dao trào phúng này.
Như vậy yếu tố tục trong ca dao, đặc biệt trong mảng ca dao cưòi quả là
thủ pháp quan trọng góp phần tạo nên một chuỗi tiếng cười sảng khoái, giòn
giã, châm biếm, mỉa mai. Bên cạnh đó, yếu tố tục còn được sử dụng khá đậm
nét trong truyện cười dân gian Việt Nam.
Sử dụng yếu tố tục trong truyện cười
Khác với cái tục tĩu, yếu tố tục sử dụng trong truyện cười dân gian là
những lời nói tự nhiên đến mức thoát khỏi cái tục tĩu thường ngày. Tục mà
không dâm, đó là đặc trưng của truyện cười dân gian.
Truyện cười dân gian sử dụng yếu tố tục là phương tiện để gây cười, nó
hàm chứa nhiều mức độ khác nhau: khi thì làm nền, khi nêu trực diện, khi lại
phải liên tưởng.
Trong truyện cười, yếu tố tục xuất hiện ngay từ đầu (có khi nằm ngay
trong tên gọi của câu chuyện), nhưng mục đích, nhiệm vụ của nó chỉ làm nền
cho một sự cười cợt, phê phán nào đó.
Ở truyện “Lâu lắm mới thấy mặt” kể về một bà huyện mang thai, lâu ngày
không được chiêm ngưỡng “của quý” của mình, một hôm đi đại tiện bà chợt
nhìn thấy vội thốt lên: “lâu rồi mới thấy mặt”. Anh lý (lý trưởng) đi qua,
tưởng bà gọi: “Dạ! Bẩm… bấy lâu nay quả tình con bận quá nên hôm nay mới
lại được hầu bà lớn ạ!” Câu chuyện có yếu tố tục ngay từ đầu, nhưng dường
như người nghe không chú ý đến yếu tố tục. Cái cười này nhằm vào bà huyện
và thói “có tật giật mình” của anh lý, cười vào sự mâu thuẫn, lầm lẫn giữa câu
nói của bà huyện với câu “đáp lễ” của anh lý.
62
Hay như câu chuyện kể về một bà goá nọ làm giỗ đãi khách, vô tình ngồi
để hớ “của quý” ra, đứa con nhìn thấy, nói bóng gió để mẹ biết: sao mẹ “bầy
biện” ra làm gì thế? Người mẹ lại hiểu “bầy biện” theo nghĩa khác: “mẹ thành
tâm bầy cho các quan xơi đấy mà”. Ta bật cười trước câu nói của người mẹ.
Con thì nói nghĩa bóng, mẹ lại hiểu theo nghĩa đen. Câu chuyện tục nhưng
qua câu nói của bà mẹ (dù vô tình) nhưng với lôgic câu hỏi của đứa con thì
đây là một câu nói xỏ đám quan văn, quan võ… kiểu “mượn gió bẻ măng”
vậy. Tiếng cười bật ra mà quên hẳn cái tục ban đầu. Câu chuyện có yếu tố tục
nhưng dường như yếu tố tục chỉ góp phần làm nền, để nổi bật một ý tứ khác.
Người nông dân vất vả, cực nhọc với công việc đồng áng, vườn tược…
họ cần cười để vui vẻ, cười để xoa bớt những âu lo của cuộc sống hằng ngày,
họ không có thời gian suy ngẫm để cười, họ muốn được cười ngay tức khắc.
Vì thế trong truyện cười yếu tố tục được nói trực diện không úp mở. Đây là
một trong những cách mà tác giả dân gian thường dùng khi phê phán hoặc vui
cười. Với một cuộc sống còn thấp kém, người dân không biết nói đưa đẩy,
bóng bẩy mà gọi ngay tên sự vật có sao nói vậy.
Những truyện: “Cặc mày là cặc mày, cặc tao là cặc tao”, qua những lời
tranh luận luẩn quẩn giữa phú ông với người nông dân, tiếng cười bật ra qua
một loại ngôn từ rất tục.
Nếu ở câu chuyện trên ta cười qua qua ngôn ngữ tục của phú ông, thì ở
truyện “Đẻ ra sư” tiếng cười bật ra qua hành động tục. Câu chuyện kể lại
rằng: Một người đàn bà lội xuống ao mò cua, chẳng may bị cua cắp phải bẹn
đau kêu trời. Một ông sư nhân đức đi qua bèn lại cứu, vì sợ đưa tay vào gỡ
làm ô uế bàn tay mình nên ông ta đành ghé miệng lấy răng cắn con cua ra. Ai
ngờ con cua còn một cái càng nữa quắp ngay vào mồm sư. ở đây tiếng cười
được bật ra. Không những thế, tiếng cười còn được thể hiện qua ngôn ngữ rất
đỗi hồn nhiên của trẻ thơ: A. Mẹ tao đẻ ra sư.
63
Ngược lại với cách nói trực diện, yếu tố tục nhiều khi lại xuất hiện trong
sự liên tưởng so sánh (nói A phải hiểu B; nói nghĩa đen phải hiểu nghĩa
bóng). Điều đó cũng dễ hiểu, ở hầu hết các truyện dạng này, ta không thấy
bóng dáng của ngôn ngữ tục hay hành động tục…, mà ngẫm ra lại rất tục, giật
mình “xấu hổ thay”.
Có thể dẫn chứng là một loạt các truyện như: “Thả cả ra”, đây là một câu
chuyện rất tục, vậy mà yếu tố tục không xuất hiện trực tiếp, bắt người nghe
phải ngẫm nghĩ tưởng tượng. Hay như trong: “Thuốc mọc râu” rằng mẹ nó tư
thông với sư và ông thầy cúng rồi sinh ra nó. Quan đợi khi nó lớn và hỏi xem
ngày nó còn ở trong bụng mẹ ai hay ra vào trong đó. Nó hồn nhiên đến tinh
tường: chỉ có một thằng trọc. Người nghe và cả ông quan sửng sốt: sư hay cả
hai. Buộc phải liên tưởng mới bật ra tiếng cười thú vị.
Như vậy, yếu tố tục không chỉ được sử dụng trong ca dao, trong truyện
cười mà nó còn là một thủ pháp quan trọng không thể thiếu trong vè.
Sử dụng yếu tố tục trong vè
Trong đời sống dân gian, bên cạnh những ngày tháng lao động vất vả, cực
nhọc, người nông dân thường chọn cho mình một thú vui để cuộc sống trở
nên tươi đẹp hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thú vui tao nhã như nhâm nhi
chén rượu bình vài câu thơ, thưởng nguyệt trong đêm rằm hay những câu
chuyện đầm ấm tình làng xóm bên bát nước chè xanh cùng miếng trầu cay thì
vẫn còn nhiều người đi tìm những thú vui tầm thường, ích kỷ. Thú vui ấy
không những biến họ từ những con người lành mạnh thành những kẻ thân tàn
ma dại mà còn trút lên đầu, lên vai người thân của họ, đó là thói nghiện ngập
rượu chè, cờ bạc. Bằng nghệ thuật châm biếm khá sâu cay, kết hợp với việc
sử dụng yếu tố tục, tác giả của bài vè đã nêu lên những nét khá hiện thực về
hạng người đó:
“Chồng em hay bạc hay bài
64
Tổ tôm xóc đĩa lại tài cò quay.
Múa chân múa tay
Mua chẵn bán lẻ.
…
Bụng thì óc nóc,
Như bụng ễnh ương
Mép thì mép mương
Mồm thì mồm rái (rái cá).
Beo khu (đít) beo dái,
Hôi nách lẹm cằm.
Cơm ăn hết nồi năm,
Chưa no bụng no dạ…”
(Như thằng gần chết, tr.634, tập 13)
Cha ông ta đã từng nói: “Cờ bạc là bác thằng bần”, quả không sai. Bởi
đánh bạc là một thú vui tiêu khiển trong xã hội cũ, đành rằng đó là thứ mua
vui nhưng thực chất là một phương tiện sát phạt để bóc lột lẫn nhau. Bài vè
“Làm trai cờ bạc thì chừa” với lối hành văn mộc mạc và tự nhiên đã mô tả
một cách rất tinh tế những nét sinh hoạt trước đây trong xã hội qua cảnh họp
nhau đánh bạc, cảnh gá thổ, đổ hồ, cảnh đòi nợ, cảnh vợ chồng đay nghiến
nhau, thậm chí rất khó lọt tai khi phải nghe những lời nói tục tĩu, những lời
chửi bới vô học, đào mồ đào mả cả những người đã khuất, bất chấp cả luân
thường đạo lý. Họ ăn nói lung tung khi say, họ không làm chủ được lời nói và
hành vi của mình:
“…Hắn đào hết cha, hết mẹ
Hắn chửi hết tổ, hết tiên
Các anh làm chi nên
Để ông cha chịu tội
Để mẹ thày chịu tội…”
65
(Làm trai cờ bạc thì chừa, tr.649, tập 13)
Quả là “cờ bạc rượu chè”, những thứ ấy thường là những người bạn đồng
hành trong cuộc tấn công phá huỷ nhân cách con người. Rượu vào lời ra đó là
nguyên nhân và hậu quả tất yếu của những người quá chén. Người say rượu
thường lý sự “nam vô tửu như cờ vô phong” và sa đà thái quá. Rượu đã biến
họ trở thành con người ăn nói thô tục và còn xuất hiện cả thói hung hăng, ngổ
ngáo không biết suy nghĩ. Bài “Vè tệ uống rượu” là một ví dụ điển hình cho
loại người đó:
“…Mấy chú mặt lì
Ngồi dai nói bậy
Làng xóm thấy vậy
Cũng ngán thằng say
Uống cho quá tay
Mặt như gà mái…”
(Vè tệ uống rượu, tr.623, tập 13)
Vè chấp nhận cả ngôn ngữ thô tục, khi ngôn ngữ ấy biểu hiện được đúng
tâm trạng, sự phẫn uất cao độ của con người đó trước hiện thực bất công của
cuộc sống:
“Vú hiền tôi ở đến rằm
Nhược bằng vú dữ mồng năm tôi về
Tháng mười cắp gạo đến thuê
Đấm c... vô ngõ choa về nhà choa”
(Tổng tập Văn học dân gian người Việt - Vè sinh hoạt, tr.64, tập 13)
Khi cần miêu tả đến tận cùng của hiện thực thì vè sử dụng yếu tố tục
ngay cả cách dùng từ:
“…Đàn ông leo heo
Những răng với dái
Đàn bà con gái
66
Vú đét lưng gầy…”
(Tổng tập Văn học dân gian người Việt - Vè sinh hoạt, tr.64, tập 13)
Trong phạm vi đề tài mà chúng tôi nghiên cứu có 82 bài vè (Tập 13 và 14
- Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà
Nội, 2006) có nội dung châm biếm những thói hư tật xấu, tố cáo châm biếm,
đả kích phong kiến đế quốc tay sai thì có đến 12 bài, chiếm 14,6% đề tài, đã
sử dụng yếu tố tục.
Bảng 2.3: Thống kê số bài có nội dung sử dụng yếu tố tục
TT
1
Tên bài
Vè con gái hư
Số
Tập từ
tục
13
1
2
Vè vợ chồng làm
13
biếng
1
3
Vè tệ uống rượu
13
1
13
3
13
2
14
2
4
5
6
7
Như thằng gần
chết
Làm trai cờ bạc
thì chừa
Vè chửi Pháp và
vua quan
Hòn đạn công lý
giết người không
14
oan
4
Trích dẫn
Thổi lửa té địt pho pho
Đổ thừa ông táo nó ho ùm sùm
Heo cúi vịt gà
Ỉa đầy nhà cửa
Đổ lại đổ qua
Đ. mẹ đéo bà
Mồm thì mồm rái
Beo khu (đít) beo dái
Hắn đào hết cha hết mẹ
Hắn chửi hết tổ, hết tiên
Tổ cha thằng bố cu gồ
Quân Tây vừa doạ đái ra đầy quần
Kìa như “quân chó ” đâu đây
Mưu gian khen khéo đặt bầy nọ kia.
Thằng Bá Phàn đã chìa mặt chó
Đéo mẹ bọn quân ròng mặt chó
Bây giờ lại đỡ sau khu “đít” cường
quyền
67
8
9
10
11
12
Vua quan lại về
tổn hại đến dân
Việt gian
Vè nói ngược
đời nay
Vè đả kích Trần
Lệ Xuân
Vè trò hề Mỹ
Diệm
14
14
1
14
1
14
2
14
Để cho nước chảy nhọn khu (đít)
chống đò
Tây ỉa cũng phải đi chùi
Buôn dân bán nước
Lộn đít lên đầu
Lệ Xuân con đĩ dâm loàn
Nên có con đĩ dâm loàn Lệ Xuân
Diệm bợ đít Tây
Rồi luồn trôn Mỹ
1
2
Có thể thấy việc sử dụng yếu tố tục trong ca dao và truyện cười dân gian
tuy cùng thể hiện một nội dung như nhau nhưng cái tục trong ca dao phần
nhiều chỉ nhằm mua vui, giải trí là chính, còn ở truyện cười chủ yếu để đả
kích, tố cáo vua chúa, quan lại. Bên cạnh đó, việc sử dụng yếu tố tục trong vè
cũng mang những nét đặc trưng rất riêng biệt bởi cái cười ở vè thiên về yếu tố
thời sự, mang tính chiến đấu cao, tính thực tiễn sinh động.
2.4 Thủ pháp phóng đại, cường điệu
Trong cuộc sống có biết bao kẻ thô thiển, lố bịch, có những con người
tham lam, keo kiệt, những kẻ chuyên ba hoa, phét lác, những con người lười
chẩy thây đến những kẻ ngu dốt sống bê tha chuyên cờ bạc rượu chè. Có khi
cùng một hiện tượng xảy ra nhưng với những mức độ khác nhau, vè đã sử
dụng thành thạo “vũ khí tiếng cười” để châm biếm, phê phán những thói hư
tật xấu trong xã hội. Vì vậy cách miêu tả nhân vật của vè cũng mang những
nét hài hước, châm biếm. Để gây cười đạt hiệu quả, tác giả dân gian đã sử
dụng thủ pháp phóng đại, cường điệu để miêu tả đối tượng, đồng thời còn thể
hiện thái độ của mình đối với đối tượng bị phê phán. Vậy chúng ta hiểu thế
nào là thủ pháp phóng đại cường điệu.
2.4.1 Thế nào là thủ pháp phóng đại, cường điệu
68
“Là dùng những từ ngữ hoặc cách diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần
những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích làm nổi bật
bản chất của đối tưọng cần miêu tả, gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ. Khác hẳn
với nói điêu, nói khoác về tính chất, động cơ mục đích, phóng đại không phải
là thổi phồng sự thật hay xuyên tạc sự thật để lừa dối. Nó không làm người ta
tin vào điều nói ra, mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên” [32, tr.46]
2.4.2 Thủ pháp phóng đại, cường điệu trong văn học dân gian
Thủ pháp phóng đại, cường điệu trong truyện cười
Đây là một trong những thủ pháp được tác giả dân gian sử dụng tương đối
phổ biến. Truyện cười miêu tả hiện thực bằng cách phóng đại, cường điệu sự
thật. Trong cuộc đời muôn ngàn sự việc hằng ngày xảy ra, khác nào như
muôn ngàn nét vẽ phức tạp trên một bức phông lớn, nếu tô đậm một số nét
làm cho nổi bật chúng nên thì đó là một cách phóng đại cường điệu hoá. Nghệ
thuật truyện cười khác nào như nghệ thuật của nhà biếm hoạ. Nghệ sĩ biếm
hoạ tô vẽ một bức tranh, có khi kéo dài cái mũi, khoanh thêm một nét nhăn kỳ
quặc chính là để nêu bật cái chủ chốt, cái bản chất của sự việc. Cho nên tuy
hình vẽ thực là kỳ quặc mà ta thấy rất sống, rất thực và nhận ra tác giả định vẽ
ai, vẽ cái gì. Hơn nữa, nếu tác giả cứ vẽ một cách bình thường thì không
những ta không cười mà còn không nhận thấy ngay cả bản chất chủ yếu của
nhân vật, sự việc.
Trong truyện cười khi thì phóng đại cường điệu hành động, lúc thì tính
cách, hoàn cảnh và ngôn ngữ để gây cười. Có khi là một hành động đáng cười
như: Anh chàng nọ trong “Kén rể người” người ta thì bước tiến, còn anh thì
lại bước lùi, ngộ nhỡ nếu không được chấp nhận anh đỡ phải mất công quay
đầu. Hay một tính cách đáng buồn cười như anh chàng lười trong “Há miệng
chờ sung”, cũng chẳng có kẻ nào lười đến độ mà ngửa miệng chờ sung rụng,
khỏi phải hái.
69