1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

3 Tính chất của vè người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.47 KB, 113 trang )


quên đi bài vè khi sự việc được phản ánh mất đi tính thời sự mà thay vào đó là

những bài vè hướng về những sự kiện mới. Bài vè “Làng đào giếng” là một

minh chứng cho điều đó:

“…Giếng đào ra uống nước,

Cho con cháu muôn đời,

Khỏi mang tiếng người cười,

Khỏi bẽ cùng sáu xóm.

Tiết xuân ra còn đượm,

Ngày mùng sáu ngày lành.

Đàn em với đàn anh,

Ta quyết đào nỏ tiếc.

Giừ đào ra mới biết,

Trên đất rẻo một vòng,

Giữa mắc lớp đá ong,

Xóm ta rày ngao ngán.

Giếng đào ra còn cạn,

Cuốc thuổng lại cầm tay,

Chạy ra mượn đồ tây,

Mượn sà beng, vên, vét.

Mượn cà cà, ven vét.

Xóm ta cũng quyết,

Con trai cũng vững vàng,

Sắp ra đứng hai hàng,

Đá ong lên lớp lớp,



22



Đá bàn lên lớp lớp.

Vui vầy cười cợt,

Kẻ nói chuyện nay mai,

Người nói chuyện khôi hài,

Quân reo hò rôm rả,

Chuyện nói cười rân rả….”

(Làng đào giếng, tr.431, tập 13)

Hơn nữa, vè không kể chuyện theo lối bàng quan mà bộc lộ thái độ của

nhân dân trước sự việc được phản ánh như: châm biếm nạn thách cưới, thói

lười biếng, khoác loác như:

“Nghe vẻ nghe ve,

Nghe vè lác Huyền

...

Áo quần không giặt,

Mình mẩy lấm lem,

Cặp mắt tèm hem,

Chân mày trắng xác.



Trong mình có lác,

Ngoài miệng có duyên.

Ở làng An Điền,

Kiếm ăn cũng được.

Lưng dài thậm thượt,

Làm biếng như tinh.

Gần tới lễ đình,

Nằm lì nhà đãi.

Ăn rồi cứ gãi,



23



Công việc chẳng làm.

Mình một xác phàm,

Vợ con không có.”

(Vè lác Huyền, tr.617, tập 13)

Tính thời sự còn bộc lộ thái độ căm ghét bọn quan lại đục khoét mặc dân

tình khốn khổ, ca thán về nạn thuế má, phu phen, cờ bạc. Bài vè sau đề cập

đến một số bọn tai to mặt lớn của mấy làng ở Quỳnh Lưu đã làm hại dân bằng

cách gá cờ gá bạc. Những cái bỉ ổi của bọn quan Kiểm, quan Điển, ông Tuần,

ông Chánh, thầy Đề, thầy Thông được tác giả bài vè phê phán với một thái độ

nghiêm khắc và mỉa mai:

“…Ruộng vườn bán hết,

Đến chết vẫn không chừa.

Được, rồi lại thua

Của người chưa dễ xúc.

Ai bày ra chẵn lẻ,

Tiền xóc đĩa cũng êm.

Đánh cả ngày lẫn đêm,

Đầy một sân quan Kiểm.

Đầy một nhà quan Kiểm.

Bắt ra mà điểm:

Có anh Chiến, anh Xương;

Có quan Điển, quan Hường

Ông Tú Văn cũng có

Bà Tú Văn cũng có...”

(Quan Kiểm đánh bạc, tr.638, tập 13)



24



Bên cạnh đó, nhiều bài vè còn ca tụng những thành tích xây dựng làng xã,

ngợi ca những người anh hùng. Đó là tính thời sự trong vè.

1.3.2 Tính chiến đấu

Vè không chỉ có tính thời sự mà còn mang tính chiến đấu cao và được thể

hiện qua những điểm tiêu biểu sau:

- Vè phản ánh đúng hiện thực khách quan, đặc biệt là cái hiện thực khách

quan trong xã hội cũ đầy bất công và vô nhân đạo.

- Vè dám công khai chỉ mặt, gọi tên đích danh thủ phạm cho dù chúng là

cường hào lý dịch hay bọn tham quan ô lại.

- Vè thẳng tay vạch rõ bản chất những mặt trái của xã hội, mấu chốt của

những mâu thuẫn giúp người ta nhìn thẳng vào hiện thực để phản ánh đấu

tranh. Quả đúng như một nhà nghiên cứu về vè đã khẳng định: “Sự thật trong

làng xã được ghi lại tươi rói, ngồn ngộn. Mặc dù còn lởm chởm như đất mới

cày, đường mới đắp” [5, tr.78]. Thế nhưng muốn có một mùa màng bội thu

thì phải có những người xới lên những luống cày đầu tiên ấy.

Văn học dân gian nói chung có tính chiến đấu cao, nhưng nếu các thể loại

khác của văn học dân gian như: truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, ca dao chú

trọng phản ánh cuộc đấu tranh xã hội lại còn chú ý đến việc miêu tả thiên

nhiên, miêu tả tình yêu nam nữ và việc biểu lộ tâm sự của nhân dân trước

những vấn đề như ý nghĩa cuộc đời, thái độ đối với cái sống và cái chết thì vè

lại chủ yếu tập trung vào các vấn đề đấu tranh xã hội. Bên cạnh một số ít bài

vè nói về thiên nhiên thì hầu hết các bài vè đều phản ánh cuộc đấu tranh xã

hội. Và trong những bài này, nếu trừ một số bài vè lịch sử vừa ca ngợi anh

hùng nông dân, anh hùng dân tộc, vừa đả kích những thói hư tật xấu của xã

hội cũ thì hầu hết là những bài vè đả kích giai cấp thống trị thối nát. Trong khi

đả kích như vậy, vè không quên sử dụng thủ pháp trào phúng.



25



Vè thường chộp lấy những sơ hở của giai cấp thống trị, gọi hẳn tên người,

nêu rõ sự việc, vạch trần những thủ đoạn gian ác, những hành vi xấu xa, nói

hộ nhân dân những nỗi niềm uất ức phẫn nội, những lời lẽ phê phán kịch liệt

đối với những sự kiện chướng tai gai mắt và mang tính thời sự nóng hổi. Vè

đáp ứng kịp thời nhu cầu của nhân dân cho nên được mọi người thích thú, học

thuộc rồi truyền nhau một cách nhanh chóng. Cũng vì vậy mà một bài vè

thường lan ra với một sức mạnh không gì ngăn cản nổi trong xã hội như:

chuyện làng, chuyện xóm, chuyện vua, chuyện nước.

Trong phạm vi đề tài mà chúng tôi nghiên cứu có 82 bài vè (tập 13 và 14

Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà

Nội 2006) có nội dung châm biếm những thói hư tật xấu, tố cáo châm biếm,

đả kích phong kiến đế quốc tay sai thì có đến 33 bài chỉ đích danh đối tượng,

chiếm 40% đề tài.

Vè khẳng định và xã hội hoá những nhận xét trước đó vì tất cả đã được

miêu tả rõ nét và là bản án của dư luận xã hội. Đối tượng bị lên án dẫu có

quyền lực, uy thế cũng không làm gì được để chống lại vì vè là tác phẩm

truyền miệng và “khẩu thiện vô bằng” dẫu cho có thể đoán biết ai là tác giả

thì cũng không có chứng cứ cụ thể để bắt tội, đã không thể lường được xem

có bao nhiêu người biết và thuộc, lại càng không có cách nào ngăn cản nổi sự

lan tràn của tác phẩm. Và nếu càng có thái độ lồng lộn, căm tức đối với bài vè

thì lại càng kích thích người ta đi tìm nghe, học thuộc và lưu truyền bài vè

rộng hơn, xa hơn. Cho nên những kẻ bị vè đả kích thường là thuộc giai cấp

thống trị, rất sợ vè. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến giai cấp

thống trị và tầng lớp tri thức của nó tìm cách xuyên tạc vè, hạ thấp giá trị của

vè và ít nhiều gây ra thành kiến đối với vè. Thành kiến đó còn rơi rớt đến

ngày nay thì cần phải được xoá bỏ.

Như vậy có thể thấy hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào khác vè

có tính chiến đấu, cần được coi trọng và đi sâu tìm hiểu nhiều hơn nữa. Bởi lẽ



26



trong xã hội thực dân phong kiến cũ, một xã hội chất chứa những mâu thuẫn,

bất công và thối nát. Vè là một vũ khí sắc bén để châm biếm, đả kích những

hiện tượng lố lăng, ngứa mắt xả ra trong xã hội.

Bảng 1.2: Thống kê số nhân vật bị đả kích, châm biếm trong bài

Tên bài



Nguồn



Số

nhân

vật

1



Số lần

CB, Đ

K

2



Chi loại



Vè đánh me



Tập 13



Cờ bạc



Vè đánh bạc



Tập 13



2



3



Cờ bạc



Quan Kiểm đánh bạc



Tập 13



18



18



Cờ bạc



O Mười quan Huấn chửa hoang



Tập 13



7



2



Trai gái



Nhắn bà Lương



Tập 13



4



3



Trai gái



O Tần về mạc



Tập 13



1



1



Trai gái



Trách thầy Biện bỏ vợ



Tập 13



1



1



Trai gái



Mắc lừa thầy tướng



Tập 13



7



6



Trai gái



Vè đả kích Trần Lệ Xuân



Tập 14



10



3



Trai gái



Vè trách vua Tự Đức hai lòng



Tập 14



1



1



Hại dân



Ông vua Tự Đức làm hư dầndần



Tập 14



2



1



Hại dân



Để mà hồi phục nước Nam



Tập 14



1



1



Hại dân



Vè trừng trị bọn phản quốc



Tập 14



1



1



Hại dân



Tây sang nhiễu hại, tả sang bắt



Tập 14



2



2



Hại dân



Dân Nam Kim kiện Hào Lý



Tập 14



6



3



Hại dân



Dân Song Lộc kiện lý trưởng



Tập 14



2



2



Hại dân



Tập 14



3



2



Hại dân



hủy rồi



mồi



nhũng lạm

Bắc cầu Đồng Bàn



27



Kể chuyện Hào Lý nhũng lạm



Tập 14



2



2



Hại dân



Cái nạn bang tá



Tập 14



2



2



Hại dân



Hòn đạn công lý giết người



Tập 14



21



16



Hại dân



Vua quan lại về tổn hại đến dân



Tập 14



1



1



Hại dân



Vè Tây đánh Hà Nội lần thứ



Tập 14



2



2



Hèn nhát



Hà Thành thất thủ ca



Tập 14



15



14



Hèn nhát



Vè Tây chiếm tỉnh Thanh



Tập 14



6



3



Hèn nhát



Vè giặc Mỹ



Tập 14



5



4



Hèn nhát



Vè nói ngược đời nay



Tập 14



13



1



Tay sai



Vè Nhu Diệm



Tập 14



12



8



Tay sai



Vè trò hề Mỹ Diệm



Tập 14



15



1



Tay sai



Vè cờ ba que



Tập 14



3



1



Tay sai



Vè tổng Thiệu



Tập 14



6



3



Tay sai



Vè Mỹ Tú



Tập 14



3



3



Tay sai



không oan



nhất



Qua một số bài vè ta có thể thấy thái độ vô trách nhiệm của bọn quạn lại,

hào lý trước Cách mạng tháng Tám đối với tính mạng và tài sản của nhân dân

trong trận lụt năm Tỵ. Chẳng hạn trong bài vè “Sai đạo” nhân dân đã vạch tội

bọn quan lại, lính tráng tay sai của thực dân Pháp:

“…Lũ quân đi lấy

Cái tướng về chia.

Thôi đã tràn đìa

Cái chi chẳng xách.

Cái quần đã rách,

Cái áo đã xơ,

Cũng giành cũng quơ

28



Huống chi cái khá

Kẻ thì đào mả

Ngược lại phá nhà…”

Mặt khác, vè cũng không ngần ngại khi gọi đích danh vua Tự Đức mà lên án:

“Trách vua Tự Đức hai lòng

Đi về bên đạo, bỏ công bên đời…”

(Vè trách vua Tự Đức hai lòng, tr.401, tập 14)

Thái độ hèn nhát, bán nước, đầu hàng nhu nhược của vua tôi triều Nguyễn

trước nạn ngoại xâm cũng được vè nhắc đến với thái độ không kiêng nể:

“…Triều đình bảy vía còn ba.

Quân Tây vừa doạ đái ra cả quần…”

(Vè chửi Pháp và vua quan, tr.450, tập 14)

Qua một số bài vè trên, ta có thể hình dung được cả một bộ mặt nông thôn

Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ở đó có những người nông dân bị bóc

lột đến bần cùng, phải chịu đựng bao nhiêu thảm hoạ do chế độ thực dân

phong kiến gây ra như: đói kém, sưu cao, thuế nặng, đi phu đi lính..., còn bọn

quan lại thì không từ một thủ đoạn nào, từ tinh vi đến trắng trợn để vơ vét bóc

lột dân lành. Những bài vè này đã rất thành công khi vạch mặt chỉ tên một

cách tường tận, sắc sảo những tội ác và những hành vi đen tối của bọn chúng

cho dù chúng có là hương hào, lý dịch hay bọn tham ô quan lại.

Tóm lại: Vè đi vào những nét rất cụ thể và sinh động của cuộc sống, lách

lưỡi dao trào phúng vào tận tim đen của tất cả những bọn gian ác, của giai cấp

thống trị, phanh phui đến tận ngóc ngách những cái xấu xa nhơ nhớp của

chúng, phơi bày ra ánh sáng tội ác với tất cả những vẻ đáng căm ghét của nó.

Vè cho ta thấy rõ bộ mặt của cái xấu với một lối miêu tả rất sinh động và rất

cụ thể. Vì vậy mà vè là một thể loại có tính chiến đấu cao.



29



1.3.3 Tính địa phương

Mỗi một thể loại văn học dân gian đều ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử

nhất định và chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử ấy. Bởi vậy có thể nói

rằng: Tính địa phương bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể của nó.

Như chúng ta đã biết: “phép Vua thua lệ làng”. Làng ở Việt Nam thời

phong kiến là một đơn vị hành chính khép kín, có thể nói làng là hình ảnh của

một đất nước thu hẹp lại. Hơn thế, do nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp,

người nông dân thường gắn bó chặt chẽ với làng quê của mình “trống làng

nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Do vậy có thể thấy vè ra đời

trong hoàn cảnh làng quê ngột ngạt, bị o ép và bế tắc. Ngày ấy người ta lại

chưa có phương tiện thông tin tuyên truyền thì vè đã đóng vai trò của báo chí

truyền miệng địa phương. Chính vì thế đặc trưng nổi bật của vè là là tính địa

phương và được biểu hiện cụ thể ở bốn điểm chính sau:

Vè phản ánh những sự kiện nóng hổi, vừa xảy ra

Có thể nói bất cứ một sự kiện nào xảy ra trong làng đều được phản ánh.

Ví như trận lụt năm Tỵ - một trận lụt xảy ra tại một làng trên con sông Phố

(Hà Tĩnh), hạn hán năm Sửu - một trận hạn hán dữ dội năm 1925 ở Diễn Châu

nói riêng và ở Nghệ Tĩnh nói chung, rồi nạn đói năm Tân Tỵ, năm Thân…

cũng được các tác giả đề cập đến. Những bài vè này được miêu tả một cách tỉ

mỉ, chi tiết không khí ảm đạm, thê lương và tình cảnh khốn cùng của người

nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám ở ngay trên chính quê hương

của mình, đồng thời cũng phê phán thái độ vô trách nhiệm của bọn thực dân

phong kiến.

Nhiều bài vè đã tố cáo bọn cường hào gian ác tham nhũng ở địa phương

Nghệ Tĩnh (Dân Đồng Đức kiện cường hào; Bắc cầu Đồng Bàn; Tố cáo lậu

đinh; Lý hương Tiên Điền). Bên cạnh đó, cảnh sưu cao thuế nặng mà người



30



dân phải chịu đựng (Dân Hưng Nguyên đi phu Trấn Ninh; Dân Thanh Lý đi

phu Cửa Rào; Đi phu sông Voi) và cả những cảnh sinh hoạt đời thường với

những số phận rủi ro, cảnh đời ngang trái (kiếp làm mọn, cảnh cha già con

dại, cha mẹ tham giàu ép duyên con…).

Vè phản ánh những vấn đề thân thiết nhất trong đời sống

Thông thường trước một sự kiện xảy ra ở một địa phương người dân cảm

thấy cần phải phát biểu ngay lập tức quan điểm của mình, kể ngay lại câu

chuyện bằng văn vần cho mọi người cùng biết. Bởi vậy mà khi đọc những bài

vè chúng ta thấy những vấn đề thiết thân trong đời sống của họ, ngay cả

những vấn đề bức xúc, nóng hổi của thời đại cũng được vè đặt ra như cuộc

sống hiện tại, bát cơm manh áo, quyền sống, quyền làm người, quyền tự do

bình đẳng, tính bác ái và sự công bằng xã hội.

“…Làm ăn vất vả

Đời sống khó khăn

Không đủ cái ăn

Lấy đâu cờ xí

Cờ chuyên đánh đĩ

Cờ làm tay sai

Chính là cờ này

Là cờ bán nước…”

(Vè cờ ba que, tr.1139, tập 14)

Như vậy có thể thấy vè thực sự có tác dụng khi nêu lên được những vấn

đề mang tính thời sự, thời đại thiết thực được mọi người quan tâm chú ý.

Vè gắn với người thật, việc thật



31



Hơn ai hết chỉ những người trên quê hương xảy ra sự kiện đó mới cảm

nhận được cái hay, cái thâm thuý, ý nghĩa của bài vè và gắn bó tình yêu sâu

nặng với đứa con tinh thần do mình đẻ ra.

Để chứng minh cho điều này, chúng tôi đi sâu phân tích bài vè “Dân Nam

Kim kiện hào lý”. Chuyện xảy ra tại xã Nam Kim thuộc tổng Trung Cần,

huyện Nam Đàn. Ở đây có chợ Đình, hào lý đã bán quyền thu thuế chợ cho

một người trong làng. Số tiền thu được không dùng vào việc công ích mà

chúng lại bỏ túi tiêu riêng.

“…Tại năm đầu kiểm Sở

Ra kiện sự không rồi.

Bọn hào lý man khai,

Đã bán quyền thuế chợ.

Để thu tiền thuế chợ.

Tiền phù thu thuế chợ,

Năm bốn quý cũng nhiều

Tại lý trưởng lạm tiêu

Nhủ dân nghe răng được

Nhủ dân chiều răng được.

...

Dân nghĩ tình ngao ngán

Dân thấy cực dân ơi!

Nhịn cho hết sự đời

Thương dân tình thậm khổ...”

(Dân Nam Kim kiện hào lý, tr.456, tập 14)

Hay bài: “Dân Đồng Đức kiện cường hào”. Chuyện xảy ra tại làng Đồng

Đức, xã Xuân Liễu, huyện Nam Đàn. Nguyên thời xưa, những người đã mua

được chức tri sự, sinh đồ thì không phải chịu phu đãi tạp dịch. Làng Đồng

Đức sổ đinh có 130 người, bọn quan lại cường hào được miễn dịch và bọn



32



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

×