Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.47 KB, 113 trang )
“Là dùng những từ ngữ hoặc cách diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần
những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích làm nổi bật
bản chất của đối tưọng cần miêu tả, gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ. Khác hẳn
với nói điêu, nói khoác về tính chất, động cơ mục đích, phóng đại không phải
là thổi phồng sự thật hay xuyên tạc sự thật để lừa dối. Nó không làm người ta
tin vào điều nói ra, mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên” [32, tr.46]
2.4.2 Thủ pháp phóng đại, cường điệu trong văn học dân gian
Thủ pháp phóng đại, cường điệu trong truyện cười
Đây là một trong những thủ pháp được tác giả dân gian sử dụng tương đối
phổ biến. Truyện cười miêu tả hiện thực bằng cách phóng đại, cường điệu sự
thật. Trong cuộc đời muôn ngàn sự việc hằng ngày xảy ra, khác nào như
muôn ngàn nét vẽ phức tạp trên một bức phông lớn, nếu tô đậm một số nét
làm cho nổi bật chúng nên thì đó là một cách phóng đại cường điệu hoá. Nghệ
thuật truyện cười khác nào như nghệ thuật của nhà biếm hoạ. Nghệ sĩ biếm
hoạ tô vẽ một bức tranh, có khi kéo dài cái mũi, khoanh thêm một nét nhăn kỳ
quặc chính là để nêu bật cái chủ chốt, cái bản chất của sự việc. Cho nên tuy
hình vẽ thực là kỳ quặc mà ta thấy rất sống, rất thực và nhận ra tác giả định vẽ
ai, vẽ cái gì. Hơn nữa, nếu tác giả cứ vẽ một cách bình thường thì không
những ta không cười mà còn không nhận thấy ngay cả bản chất chủ yếu của
nhân vật, sự việc.
Trong truyện cười khi thì phóng đại cường điệu hành động, lúc thì tính
cách, hoàn cảnh và ngôn ngữ để gây cười. Có khi là một hành động đáng cười
như: Anh chàng nọ trong “Kén rể người” người ta thì bước tiến, còn anh thì
lại bước lùi, ngộ nhỡ nếu không được chấp nhận anh đỡ phải mất công quay
đầu. Hay một tính cách đáng buồn cười như anh chàng lười trong “Há miệng
chờ sung”, cũng chẳng có kẻ nào lười đến độ mà ngửa miệng chờ sung rụng,
khỏi phải hái.
69
Cũng như vậy, truyện cười còn thiên về việc chế giễu những mặt xấu có
tính chất gây cười đã được khái quát hoá. Chẳng hạn khi muốn chế giễu một
anh chàng hà tiện thì truyện cười đã tập trung được những nét điển hình của
một anh chàng hà tiện “có một không hai”, chết đuối đến nơi rồi mà vẫn ngoi
lên mặt nước mặc cả: “Ba quan thôi, năm quan thì đắt quá!”. Anh chàng hà
tiện này có thể coi là tiêu biểu cho những anh chàng hà tiện ở trên đời. Người
ta cười bởi tính chất “quá quắt” của tình tiết được truyện cười thâu tóm, chọn
lọc, phóng đại lên đến mức trào phúng.
Không những thế, khi muốn đả kích một ông quan đạo đức ra bộ thanh
liêm, tác giả dân gian đã sử dụng tình tiết: ông quan nhận quà biếu con chuột
bằng bạc mà vẫn lấy làm tiếc vì bà vợ không biết nói dối rằng ông ta tuổi sửu
để lấy quà biếu to bằng con trâu. Chỉ một tình tiết ấy mà tác giả dân gian đã
nói được điều muốn nói: những ông quan dưới chế độ cũ bên ngoài thì tỏ ra
thanh liêm nhưng bên trong thì chứa đựng một lòng tham vô đáy. Quả là tác
giả truyện cười đã chọn lọc được tình tiết rất đắt, đến mức sau khi cười, người
ta có thể nhìn thấy tất cả những ông quan “thanh liêm” trong chế độ cũ.
Những truyện như “cháy”, “nam mô boong” đã xây dựng nên những hoàn
cảnh đáng cười. Đặc biệt truyện “nam mô boong” xét về phương diện cấu tạo
thì có cả lời nói đáng cười (thầy đồ kêu “chí chí” như chuột, lý trưởng kêu
“gâu gâu” như chó, nhà sư hổ mang kêu “boong boong” như chuông), cử chỉ
đáng cười (thầy đồ đội váy trong hòm quần áo, thầy lý chui gầm giường và
nhà sư treo giữa nhà) và hoàn cảnh cũng đáng cười (ba anh dại gái gặp nhau,
ba vị đại biểu cho chính quyền, lễ giáo, đạo đức, đã “anh hùng tương ngộ”
trong một hoàn cảnh chẳng anh hùng chút nào).
Thường thì các yếu tố trên (lời nói đáng cười, cử chỉ đáng cười, tính cách
đáng cười, hành động đáng cười, hoàn cảnh đáng cười) ít khi được sử dụng
đơn độc. Ở các truyện ngắn đôi khi có thể chỉ tìm thấy một trong những yếu
tố ấy. Nhưng ở đại đa số các truyện ngắn, nhất là truyện dài, các yếu tố ấy
70
được kết hợp với nhau để gây cười. Lời nói, cử chỉ, tính cách càng trái với
quy luật tự nhiên bao nhiêu thì tiếng cười gây được càng mạnh mẽ bấy nhiêu.
Vì vậy, một trong những thủ pháp gây cười là phóng đại sự thật. Việc phóng
đại thậm chí hư cấu, bịa đặt ra hoàn cảnh thật là éo le, những nhân vật thật là
ngộ nghĩnh cũng không phương hại gì đến tính chất hiện thực của tác phẩm.
Qua việc tìm hiểu sơ bộ một số tác phẩm truyện cười, chúng tôi nhận thấy
ở trong địa hạt truyện cười thủ pháp phóng đại đã gây được hiệu quả gây cười
cao. Đương nhiên, đây không phải là thủ pháp “độc nhất vô nhị” chỉ có trong
truyện cười dân gian mà ngay trong ca dao ta cũng gặp nhiều hình ảnh phóng
đại, cường điệu.
Thủ pháp phóng đại, cường điệu trong ca dao
Cách nói khoa trương, phóng đại mang tính chất gây cười chúng ta không
chỉ gặp trong truyện cười dân gian mà ngay trong ca dao, đặc biệt là ca dao
trào phúng ta cũng gặp khá nhiều hình ảnh phóng đại quá cỡ như khi nói tới
cái “xấu” của “phái đẹp” ca dao đã cường điệu đến mức không thể tin được:
“Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.”
Hay:
“Quả báo: ăn cháo gãy răng,
Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy chày.”
Có khi dân gian còn khai thác những điều tưởng như ngược đời, không có
thật để cười vui:
“Xắn quần bắt kiến cưỡi chơi,
Trèo cây rau má, đánh rơi mất quần.”
71
Ở bài “Cô gái Sơn Tây yếm thủng tày dần” nói về cái xấu của người phụ
nữ, nó đem lại cho mọi người trận cười giòn giã bởi những mâu thuẫn đến tức
cười của nó. Bằng lối cường điệu, bài ca dao đã khắc hoạ lên bức tranh một
cô gái chưa chồng với đầy đủ “vẻ đẹp” của cô:
“Răng đen hạt nhót, chân đi cù lèo
Tóc rễ tre chải lược bờ cào
Xù xì da cóc, hắc lào tứ tung.
Trên đầu chấy rận như sung,
Rốn lồi quả quýt, má hồng trôn niêu”
Không những thế, tác giả dân gian vẫn tiếp tục dùng bút pháp phóng đại
để khám phá “vẻ đẹp kinh hồn” của cô, nhất là sự miêu tả cảnh gia đình nhà
rận thì quả là sự cường điệu hết cỡ:
“Con rận bằng con ba ba,
Đêm nằm nó gáy cả nhà thất kinh.
Hàng xóm vác gậy đi dình,
Hoá ra rận đực nóng mình bò ra”
Chính nhờ thủ pháp cường điệu, phóng đại mà bài ca dao trên đã tạo được
tiếng cười từ đầu cho đến kết thúc. Người ta tin là có một cô gái Sơn Tây rất
xấu nhưng lại không tin là xấu đến mức như thế. Vậy mà mọi người vẫn thích
nghe, bởi nó không chỉ đem lại tiếng cười vui mà còn có tác dụng phê bình,
cảnh tỉnh đối với tất cả phụ nữ. Điều đó rất đúng với mục đích sáng tác của
quần chúng lao động.
Tuy nhiên ở ca dao, đặc biệt là mảng ca dao trào phúng thì đối tượng để
phóng đại là những hiện tượng tiêu biểu hoặc những nét đặc thù cần tô đậm,
thổi phồng. Vì thế, có thể khẳng định rằng thủ pháp cường điệu, phóng đại là
một trong những “bổ trợ” quan trọng và cần thiết nhất làm nên tiếng cười giòn
giã, sảng khoái không chỉ trong truyện cười, trong ca dao mà còn trong các
thể loại khác của văn học dân gian.
72
Thủ pháp phóng đại, cường điệu trong vè
Cũng giống như truyện cười, ca dao các tác giả dân gian còn sử dụng thủ
pháp phóng đại cường điệu tương đối phổ biến trong vè. Trong hầu hết các
bài vè khi thì phóng đại hành động, lúc thì hình dáng, hoàn cảnh, tính cách và
ngôn ngữ để gây cười. Người dân Việt Nam vốn chịu thương chịu khó, quanh
năm đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời thì những người có
thói lười biếng thật lạc lõng trong cuộc sống vốn lam lũ của người nông dân.
Chính vì vậy, vè người Việt đã phản ánh thói lười biếng với một cái nhìn
tương đối toàn diện và giọng châm biếm, đả kích gay gắt. Đối tượng tập trung
phên phán của vè về thói lười biếng chính là những anh chàng, những cô nàng
vốn sinh ra từ đồng ruộng nhưng lại lười biếng, chỉ biết ăn chơi. Họ chỉ là
những kẻ ăn bán gia đình, ăn bám xã hội, họ như những cây tầm gửi trong
dòng chảy của cuộc sống lao động ngàn đời.
Chẳng hạn, khi tả anh chàng lười, để châm biếm thói lười biếng – một
thói hư, một tật xấu của anh ta, tác giả bài vè đã sử dụng rất đích đáng thủ
pháp phóng đại, cường điệu khiến cho người đọc phải bật cười trước hình
dáng của anh ta:
“…Dáng đi thất thưởng
Như thể cò hương
Bụng đói dơ xương
Miệng thời tu hú
Tay chân cù rụ
Như tướng cò ma
Cô bác xót xa
Kêu cho nắm gạo
Bỏ mồm trệu trạo
Sợ nấu mất công
73
Chết rũ giữa đồng
Rồi đời thằng nhác.”
(Vè thằng nhác, tr.620, tập 13)
Còn đây là hình dáng của người đàn bà lười nhác:
“… Cái mặt chự bự
Như thể cái mâm
Tấm lưng tày thúng
Dân chúng đều hay
Ai ai cũng biết.”
(Vè mụ nhác, tr.598, tập 13)
Tả anh chàng đánh bạc thì vè cũng chú ý tới hình dạng của anh ta. Nhân
vật trong bài vè này đã biến thành một thứ sinh vật lạ, không mang hình hài,
dáng dấp của một con người nữa chỉ vì thói ham mê cờ bạc đến điên cuồng:
“Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè đánh bạc.
Đầu hôm xao xác,
Bạc tốt như tiên.
Đến khuya không tiền,
Bạc như chim cú.
Cái đầu sù sụ,
Con mắt thõm lơ.
Hình đi phất phơ,
Như con chó đói.
Chân đi cà khói,
Dạo xóm dạo làng...”
(Vè đáng bạc, tr.625, tập 13)
Bên cạnh đó, ở nông thôn Việt Nam xưa kia thường xuất hiện nhiều hạng
người sống bê tha, chuyên cờ bạc rượu chè, lười biếng, hay bắt nạt vợ. Bài vè
74
“Như thằng gần chết” bằng một nghệ thuật châm biếm khá sâu cay, tuy có
phần cường điệu song tác giả của bài vè này đã vẽ nên những nét khá hiện
thực về hạng người đó:
“…Giương hai lỗ mũi
Như đó đơm sông
Tóc vúi (rối) bòng bong,
Như thể nạm (nắm) móc…”
(Như thằng gần chết, tr.634, tập 13)
Còn bài vè “Lấy phải vợ già” tác giả dân gian đã miêu tả một cách phóng
đại, cường điệu một anh ham giàu lấy người vợ nhiều tuổi hơn anh. Người vợ
già đến nỗi rụng hết răng nên anh chồng phải nhai cơm mớm cho con thay vợ,
khi ăn phải nhường miếng mềm cho vợ. Vợ anh ngồi bế con nhưng già quá
làm khách tưởng bà già nào nên hỏi vợ anh đâu. Thật là nực cười, bài vè dưới
đây đã phê phán, chế giễu, châm biếm thái độ tính toán trong khi lập gia đình
ở nông thôn xưa kia:
“Công anh chọn vợ ba mùa,
Trở về lại lấy vợ thừa người ta.
Anh đem vợ về nhà,
Nom (nhìn) vợ già hơn mẹ.
Nom lên mặt mẹ,
Thấy mẹ trẻ vợ già.
Sinh một chút con ra,
Mặc lòng anh nhai mớm.
Anh không nhai thì gớm (tởm),
Anh không mớm thì thương.
Khi việc họ việc đương,
75
Anh nhận lấy miếng xương,
Trao miếng mềm cho vợ.
Gặp khi dang dở,
Khách khứa đến nhà.
Hỏi: “chị ấy đâu ta?
Để bà già ẵm cháu!”.
Tay xách cái cạu,
Ra hái rau thơm.
Trở về bắc cơm,
Cho bạn ăn kẻo mệt.
Ăn rồi mới biết:
Răng rụng đi rồi.
Giừ còn lợi mà thôi,
- “Tôi cũng buồn cho bạn!”.
Gái tơ anh không kén,
Sao anh lấy vợ già?
Trăm đường tại “số” sinh ra!”
(Lấy phải vợ già, tr.681- 682, tập 13)
Bên cạnh những tật xấu như thói lười biếng, cờ bạc, rượu chè, hay ăn quà,
vè còn châm biếm thói ba hoa khoác loác, đại ngôn. Tác giả bài vè đã sử dụng
hiệu quả thủ pháp phóng đại trào lộng khiến người đọc bật cười sảngkhoái:
“Ngồi buồn đặt chuyện láo thiên
Hồi nhỏ tôi có đi khiêng ông trời
Ra đồng thấy muỗi bắt dơi
Bọ hung làm giỗ đi mời ông voi
76
Nhà tôi có một củ khoai
Xắt năm thúng vẫn hẳn hòi còn dư
Nhà tôi có bụi khoai từ
Bới lên một củ hắn lăn hư nửa vườn
Tôi vừa câu được con lươn
Cái thịt quết chả cái xương đẽo chày
Nhà tôi có một cái dàn xay
Đầu cong bịt bạc, đầu ngay bịt vàng
Nhà tôi có một cái ang
Gạt lên bẩy làng đong hãy còn lưng
Nhà tôi có một bụi gừng
Bới lên một củ ước chừng một đòn xeo
Nhà tôi có một con mèo
Bữa mô hết thịt hắn lên đèo bắt nai
Nhà tôi có một cái chai
Đựng tám thùng mắm với hai thùng dầu
Ông già tôi có bộ râu
Tôi bứt một cái đem câu con cá chình.
Nói ra chị em chớ có khinh
Vì thiên hạ đều nói láo chứ không mình chi tôi.”
(Vè nói láo, tr.124, tập 13)
Để châm biếm, đả kích bọn phong kiến thống trị, lên án cái ác, cái xấu.
Bài vè “Xã Lãi” đã sử dụng thủ pháp khoa trương phóng đại đạt đến cao độ
gây tiếng cười sảng khoái. Vè Xã Lãi là một loạt bài vè rất độc đáo của cả
vùng Liễu Đôi, là sáng tác của nhiều người về nhiều mặt sinh hoạt của một
nhân vật đặc biệt. Ông Xã Lãi hát hay, nói ngọt đến mức rắn trong lỗ cũng
phải bò ra:
77
“Xã Lãi có miệng trời cho
Cất lên một tiếng rắn bò ngay ra”.
2.5 Sử dụng thủ pháp so sánh ví von
Lấy thế giới vật chất cụ thể làm phương tiện diễn đạt nội tâm thành hình
ảnh, sống động là “ví von”, phối hợp âm điệu, thanh điệu, ngữ điệu thế nào
cho dễ nghe là vần vè.
2.5.1 So sánh là gì?
“So sánh là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai
đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn
toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một
lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [32, tr.154]
Hay “so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái khác để thấy sự giống
nhau, khác nhau hoặc sự hơn kém” [35, tr.861]. Thường thì đối tượng so sánh
bao giờ cũng là những vật rõ ràng có thể sờ, nắm, nhìn, thấy được.
Mặt khác là nhìn vào cái này mà xem xét cái khác để thấy sự giống nhau,
khác nhau hoặc sự hơn kém.
2.5.2 Sử dụng thủ pháp so sánh trong vè
Đây là một thủ pháp được tác giả dân gian sử dụng khá nhiều xen kẽ cùng
các thủ pháp khác, bổ xung cho nhau để đạt hiệu quả nghệ thuật và mang tính
chiến đấu cao nhất.
Bài vè “Như thằng gần chết”, tác giả dân gian đã sử dụng thủ pháp so
sánh để khắc hoạ chân dung méo mó, dị dạng của một “thằng gần chết” vì
rượu chè, cờ bạc:
“…Gương hai lỗ mũi
Như đó đơm sông
Tóc vúi (rối) bòng bong.
78
Như thể nạm (nắm) móc
Bụng thì óc nóc
Như bụng ễnh ương
Mép thì mép mương
Mồm thì mồm rái (rái cá).
...
Chân đi la lết
Như thể chân mèo
Bước trật bước trèo
Hai chân giao lại.”
(Như thằng gần chết, tr.635, tập 13)
Không những thế, có những kẻ khi đã đâm đầu vào cờ bạc thì khó dứt ra
được. Cờ bạc thì có lúc được lúc thua, lúc được thì “mặt vui như tiên”, lúc
thua thì “mặt buồn như cú”. Với thủ pháp so sánh, bài vè sau đã diễn tả tâm
trạng của anh chàng chuyên sa vào cờ bạc, bỏ mặc vợ con lai lưng ra làm để
trả nợ cho anh ta:
“Vè vẻ vè ve
Nghe vè đánh bạc
Đầu hôm xáo xác
Mặt vui như tiên
Nửa đêm thua tiền
Mặt buồn như cú...”
(Vè đánh bạc, tr.631, tập 13)
Hay có những anh chàng khi đã lao vào cờ bạc thì chửi vợ đánh con, có gì
bán nấy để ném vào đám sát phạt hòng gỡ lại vốn, như những nét miêu tả sinh
động dưới đây:
“...Mồm anh như cái mõ
Cứ nói liên hồi:
79