Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 111 trang )
giá trị tinh thần. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa
nhưng các định nghĩa đó vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: văn
hóa là một trong những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người
sáng tạo ra trong sự phát triển của dân tộc. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá
được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ
cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và
truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản
sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc.
1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học
Như chúng ta đã biết: văn học là một thành tố của văn hóa, nằm trong
văn hóa vì thế nó chịu sự chi phối của văn hóa như M. Bakhtin xác định:
“Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó
ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó
tồn tại”[24]. Mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên
một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn
học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng
thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện
của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình.
Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động, sản xuất, ăn
mặc, ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kĩ thuật… đều là điều kiện quan
trọng trong môi trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Những
thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn
hóa như một tổng thể, một hệ thống gồm nhiều yếu tố như: ngôn ngữ, phong
tục tập quán, pháp luật, tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn,
văn học…
Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ đạo
thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó thường
8
xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức là một hệ thống văn hóa. Là
một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát
triển. Tiếp thu những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn
học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống,
làm cho hệ thống phải thay đổi cùng nó. Ở nước ta không ít công trình nghiên
cứu văn học đi sâu vào tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam, xem
bản sắc dân tộc như là phẩm chất của văn học, và cũng có không ít những
công trình nghiên cứu văn hoá xem trọng dẫn liệu văn học như những dấu
hiệu, những tiêu chí góp phần làm sáng tỏ đặc điểm văn hoá, bản sắc văn hoá
của dân tộc. Có thể kể tên những thành tựu mới mẻ, đầy triển vọng của một số
công trình nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận từ văn hóa học như công
trình nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Thuý – Mối quan hệ giữa văn hoá và văn
học (1997), Trần Ngọc Vương – Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung (1997), Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá (1999), Trần Nho Thìn –
Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá (2007)…
Văn học với tư cách là một bộ phận của tổng thể văn hóa, một yếu tố
của hệ thống văn hóa thì không thể và không có quyền qua mặt hệ thống để
tiếp xúc thẳng hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội mà phải gián tiếp
qua hệ thống văn hóa và chỉ “quan hệ” được với hệ thống xã hội thông qua
văn hóa. Như vậy, khung nghiên cứu văn học cũng phải là khung văn hóa.
Trong quan hệ với chuyên ngành nghiên cứu văn học, văn hoá học xem xét
văn học từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu
vào văn học. Trong mối quan hệ với văn hóa học, nghiên cứu văn học và văn
hoá học có nhiều điểm tương đồng về quan điểm phương pháp luận, nhưng
vẫn khác nhau về cơ bản như: tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử, tính dân
tộc… của đối tượng đều được hai ngành quan tâm xem xét. Nghiên cứu văn
hoá học và nghiên cứu văn học đều coi trọng quan điểm hệ thống trong tiếp
9
cận đối tượng, đều quan tâm đến tính thống nhất trong đa dạng của đối tượng.
Nếu như xem xét từ góc độ thời gian, văn hoá học có văn hoá sử, nghiên cứu
văn học có văn học sử. Nếu xem xét từ góc độ không gian, văn hoá học có
văn hoá vùng, văn hoá khu vực, nghiên cứu văn học cũng có văn học vùng,
văn học khu vực. Nếu xem xét từ góc độ chủ thể, văn hoá học có văn hoá dân
tộc, nghiên cứu văn học có văn học dân tộc… Về mặt phương pháp, văn hoá
học và nghiên cứu văn học đều quan tâm đến tính liên ngành, đến việc vận
dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác áp dụng vào đối tượng
nghiên cứu cụ thể của mình.
Đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng
những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác
phẩm. Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc
nhìn văn hóa ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa. Trong đó tác
phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn
giáo, đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng
như sự chi phối của các phương tiện khác nhau. Trong đời sống sinh hoạt xã
hội từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về
các mặt xây dựng nhân vật, kết cấi, mô-típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ…
Phương pháp này có tính chất tổng hợp, trung gian giữa những phương pháp
đọc văn bản khác nhau nhưng vẫn có đặc trưng riêng. Nó thiên về nhiệm vụ
giải mã các hiện tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng
đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong
không gian và thời gian.
Tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của
tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối
chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm
được sản sinh để tìm nguồn gốc các dạng thức quan niệm về con người – thời
10
gian – không gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận
liên ngành trong nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu văn học ngày càng ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn học
với văn hoá, đặc biệt là nghiên cứu văn học tiếp nhận ở văn hoá học quan
điểm về tính tương tác của các hệ thống văn hoá, về góc nhìn văn hoá trong
nghiên cứu đối tượng đặc thù. Lý luận về sự giao thoa giữa văn học và văn
hoá trong lý luận văn học thế giới được giới thiệu khá phong phú ở nước ta
cũng là một trong những cơ sở giúp nghiên cứu văn học ngày càng khám phá
những chiều kích văn hoá trong đời sống năng động của văn học nước nhà.
1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày
1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc
Dân tộc Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái sống chủ yếu ở các tỉnh
miền núi phía Bắc (vùng văn hóa Việt Bắc) như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc
Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang… Bản thân văn hóa Tày đã có
một bản sắc dân tộc riêng nhưng trước hết vì thuộc vùng văn hóa Việt Bắc
nên ít nhiều văn hóa Tày có sự ảnh hưởng của văn hóa vùng. Cư dân chủ yếu
của vùng Việt Bắc là người Tày và người Nùng, ngoài ra, còn một số dân tộc
ít người như: Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay.
Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản
giống các khu vực khác. Về tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư
dân Tày- Nùng hướng niềm tin của con người đến thần bản mệnh, trời đất, tổ
tiên. Họ thờ nhiều thần linh như thần sông, thần núi, thần đất. Ngoài ra, còn
có các ông vua, Giàng Then cũng được dân tộc nơi đây kính cẩn thờ phụng.
Diện mạo tôn giáo Việt Bắc cũng có những nét khác biệt. Các tôn giáo như
Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của
người Việt Bắc. Tam giáo được cư dân Việt Bắc tiếp nhận gần giống người
Việt nhưng ở mức độ thấp hơn và kết hợp với tín ngưỡng vật linh vốn có
11
trong đời sống dân gian. Về chữ viết, vào giai đoạn cổ đại, cư dân ở đây
không có chữ viết; sang giai đoạn cận đại thì có chữ Nôm và giai đoạn hiện
đại thì chữ Nôm tồn tại song song với chữ Latinh. Cũng chính vì vậy, nét
đáng chú ý là cư dân Tày – Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết bằng
chữ viết dân tộc khá sớm như Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài
Đoàn… Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng về thể loại,
phong phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói
ví, câu đố, đồng dao, dân ca. Đặc biệt, lời ca giao duyên: lượn cọi và lượn
tương, là những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày – Nùng ưa chuộng.
Lễ hội của cư dân Tày – Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đồng là
Hội Lồng Tồng (hội xuống đồng), diễn ra hai phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính
là rước thần đình và thần nông ra nơi mở hội ở ngoài đồng. Phần hội căn bản
là các trò chơi như đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật… Như vậy, về
bản chất, Hội Lồng Tồng là một sinh hoạt văn hóa.
Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, không thể không
nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là
nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến một
loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vùng này, và có thể coi như một sinh hoạt
văn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc. Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hóa có
nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể: Tày - Nùng với lịch sử và văn hóa của họ
tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này không phá vỡ tính thống
nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hoá cả nước.
1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày
Nằm trong cái nôi văn hóa vùng Việt Bắc, ngoài những ảnh hưởng của
văn hóa vùng, dân tộc Tày còn có riêng một bản sắc văn hóa, cụ thể là:
Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền phát triển với đủ loại cây
trồng như lúa, ngô, khoai… Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã
12
biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như đào mương,
bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày
còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… Chăn nuôi phát triển với nhiều loại
gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn phổ biến. Các
nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với
nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Đặc điểm kinh tế mà đặc biệt về mặc nông
nghiệp này đã tạo nên những biểu tượng văn hóa trong tín ngưỡng dân tộc
Tày như tục thờ nước, thờ Mẹ Hoa, thờ thần lúa. Người dân thường ở chân
núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông.
Họ sống thành bản làng đông đúc, mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều
bản có tới hàng trăm nóc nhà. Dân tộc Tày còn có tên gọi là Thổ ở Việt Bắc,
hoặc Phén (tức là Phiên) ở Hải Ninh; nhưng tên “Tày” đúng hơn cả và được
nhân dân Tày xác nhận.
Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có quy định rõ ràng
trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly
hôn. Đã từ lâu dân tộc Tày không còn tục ở rể. Nam nữ được tự do yêu
đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng không lại tùy thuộc vào bố
mẹ hai bên và số mệnh của họ có hợp nhau không. Vì thế trong quá trình đi
tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá só của cô gái về so với lá số của con
mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày
sinh nở mới về hẳn bên nhà chồng.
Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm. Cái độc đáo
đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối dùng màu chàm phổ
biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên
trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn
trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc
được dùng trong hoa văn mặt chăn hoặc các tấm thổ cẩm. Và “áo chàm” đã
13
trở thành một hoán dụ phổ biến xuất hiện nhiều trong thơ văn để chỉ đồng bào
dân tộc Tày nói riêng hoặc các cư dân Việt Bắc nói chung.
Đồng bào Tày có một nền văn hóa tín ngưỡng sâu đậm ngay từ thời kỳ
khởi nguyên, và được tiếp tục phát triển theo những xu hướng linh động cho
đến hiện tại (có nhiều điểm tương đồng văn hóa tín ngưỡng vùng Việt Bắc –
đã trình bày ở trên). Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên, ngoài ra còn thờ
cúng thổ công, vua bếp, bà mụ, Mẹ Hoa, lúa. Hàng năm có nhiều lễ tết với
những ý nghĩa khác nhau nhưng quan trọng nhất vẫn là tết Nguyên đán - mở
đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ
chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm
lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết
rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Chữ viết của người Tày xuất hiện khá sớm, chữ Nôm Tày xây dựng trên
mẫu tự tượng hình, gần giống chữ Nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được
dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng… Chữ Tày - Nùng dựa trên cơ
sở chữ cái Latinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa những năm 80, được
dùng trong các trường phổ thông cấp 1, vùng có người Tày – Nùng cư trú.
Đối với cư dân Tày, lễ hội là là sinh hoạt văn hóa quan trọng bậc nhất
trong đó đặc biệt là Hội Lồng Tồng (Hội xuống đồng) trở thành “đặc sản” sinh
hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân vùng Việt Bắc cũng như văn hóa Tày. Lễ
hội mang đậm những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, thường được
tổ chức ở những đám ruộng to rộng. Trước ngày hội, các gia đình đều quét
dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khách đến
đây, dù quen dù lạ đều được đồng bào mời về nhà ăn nghỉ qua đêm chờ dự
hội. Trong ngày diễn ra lễ hội, phần lễ và phần hội đều diễn ra trang trọng, vui
tươi. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối
tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ở ngoài đồng, mỗi
14
gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài chục
đến một trăm món. Phần hội quan trọng nhất là hội xuống đồng. Một nông
dân cày giỏi được giao trọng trách mắc cày vào con trâu mộng, to khỏe để
vạch luống cày đầu tiên cho mùa vụ mới. Thầy cúng đi trước làm lễ, luống
cày theo sau như nở hoa trên đất hứa hẹn với bà con nông dân một mùa vụ
suôn sẻ, bội thu.
Hoạt động vui nhất, thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội là
hội tung còn. Nếu ở lễ hội này không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân
bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng
tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hoà. Trong
trò chơi này, nam nữ thanh niên thi tung còn cho nhau. Ngoài ra còn có các
hoạt động múa sư tử, múa võ, kéo co... Ðặc biệt, đêm về, nam nữ thanh niên
thi hát lượn đối đáp suốt canh dài...
Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại
thơ ca, múa, nhạc…. Nhiều làn điệu dân ca nổi tiếng như lượn, phong slư,
phuối pác, phuối, rọi, vén eng… Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then,
lượn nàng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng.
Đồng bào Tày thường lượn trong Hội Lồng Tồng, trong đám cưới, mừng nhà
mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương
có múa rối bằng gỗ khá độc đáo. Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng
kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con.
Bên cạnh những nét văn hóa trên, nền văn học dân gian Tày còn là kho
tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca… tiêu biểu là truyện
Quả bầu, Thạch Sanh, Cẩu Khây, Phú Lương Quân, Báo Luông – Sao Cải,
Khảm hải (Vượt biển) …
Từ những điều vừa tìm hiểu về đặc điểm văn hóa của dân tộc Tày như
trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng: mỗi một dân tộc đều mang trong mình
15
những dấu ấn văn hóa tạo nên đặc sắc của dân tộc đó. Bản sắc văn hóa hay
truyền thống dân tộc là quá trình chọn lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ. Nếu
một dân tộc không có bản sắc, không tiếp thu truyền thống thì văn hóa dân
tộc đó chỉ là hư vô. Do đó việc phát hiện, gìn giữ và phát huy truyền thống
văn hóa của từng dân tộc theo hướng ngày càng hiện đại nhưng vẫn giữ
được dấu ấn riêng là vấn đề ý nghĩa, mang tính thời sự, cập nhật. Trên đây là
một số đặc trưng văn hóa nổi bật của cư dân vùng Việt Bắc và dân tộc Tày.
Những đặc trưng văn hóa này sẽ là tiền đề hữu ích giúp chúng tôi triển khai
đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa có cơ sở thực tế và sức
thuyết phục hơn.
1.3
Khát quát về văn học Tày
1.3.1 Văn học dân gian Tày
Văn học dân tộc thiểu số ở nước ta tuy hình thành và phát triển muộn
nhưng có nhiều đóng góp đáng kể làm phong phú cho kho tàng văn học Việt
Nam. Hệ thống văn học dân gian Tày đặc biệt sinh động bởi sự góp mặt của
nhiều thể loại như: truyền thuyết, truyện thơ, dân ca, tục ngữ, ca dao. Nội
dung truyện cổ Tày thường tập trung giải thích các hiện tượng tự nhiên,
những mâu thuẫn trong đời sống con người, cuộc chiến giữa thiện và ác.
Truyện ngụ ngôn có rất nhiều tình tiết ly kỳ, chết đi sống lại hoá thân thành
con vật, cỏ cây, hoa lá hoặc có cuộc sống sung sướng, thậm chí làm vua,
quan… thể hiện khát vọng sống của con nguời. Tục ngữ ca dao đó là những
câu phản ánh tâm tư tình cảm, tâm trạng hoặc được đúc kết thành kinh
nghiệm, triết lý trong cuộc sống, kinh nghiệm trong sản xuất, đối nhân xử thế,
trong dấu tranh xã hội cũng như trong tự nhiên. Đáng chú ý nhất trong văn
học dân gian Tày là thể loại truyện thơ và dân ca.
Về thể loại truyện thơ, những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng của dân tộc
Tày như: Thị Ðan, Quảng Tân - Ngọc Lương, Nàng Kim, Chim sáo, Chiêu
16
Ðức, Vượt biển... Đây là những truyện được mọi người biết đến và yêu thích
nhiều, có ý nghĩa khá quan trọng trong nền văn học dân gian truyền thống và
trong đời sống tinh thần của đồng bào. Những tác phẩm này ban đầu đều được
lưu truyền bằng phương thức truyền miệng do các nghệ nhân kể trong những
dịp lễ, tết hay vào lúc nông nhàn. Có thể cốt truyện nguyên sơ còn rất lỏng
lẻo, cùng một tên truyện nhưng lại có nhiều chi tiết khác nhau, sau này được
các nho sĩ chép lại, sắp xếp lại cho hoàn chỉnh hơn và tồn tại cho đến ngày
nay. Đề tài truyện thơ Tày thường chọn đó là: tình yêu nam nữ, thân phận
người phụ nữ và số phận người nghèo khổ. Chủ đề của truyện đều tập trung
vào chủ đề quyền sống tự do của con người trong xã hội cũ, lên án chế độ ép
gả trong hôn nhân, thể hiện quyền khao khát thay đổi số phận của người
nghèo khổ.
Về thể loại dân ca, có thể nói dân ca gắn liền trong đời sống sinh
hoạt, tín ngưỡng của người Tày nhiều và quan trọng nhất so với các thể
loại văn học khác. Dân ca Tày có ba dòng đặc trưng: dân ca giao duyên,
dân ca nghi lễ và dân ca tín ngưỡng. Dân ca giao duyên phong phú về thể
loại như phong slư, lượn, phuối pác (hát đối đáp)…thường được các đôi
trai gái sử dụng khi tìm hiểu nhau, do đó làn điệu thường ngân nga nhấn
nhá vang xa trong không gian thể hiện tâm trạng, tình cảm, nỗi nhớ nhung.
Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc sắc của trai gái
Tày. Bức thư này viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải sa tanh đỏ. Phong
slư nói về cung bậc tình cảm của những người đang yêu. Khi là tiếng nói
thủ thỉ tâm tình. Lúc hóa thành dòng thác nhớ nhung tha thiết. Tình yêu
nam, nữ thể hiện trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách, trắc trở,
tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong slư thường buồn da diết. Tuy
nhiên nó không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ
lãng mạn, nhân văn.
17
Hãy tu thân chờ nhau bên ấy
Dẫu là không lấy được cũng cam
Yêu nhau để khắp mường được thấy
Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau
Tới trăm năm khi về âm phủ
Ta rủ nhau về chốn mường hơn
Lượn là một bộ phận thuộc loại hình nghệ thuật dân ca sinh hoạt của
người Tày. Lượn có nhiều tiểu loại, ngoài hai loại cơ bản là lượn cọi và lượn
slương, người Tày còn có lượn Then, lượn nàng Hai, lượn khắp,… Trong cái
nhìn đối sánh với văn hóa dân tộc Kinh, lượn là lối hát giao duyên có thể
tương tự như lối hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa
tha thiết, lay động lòng người, gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Có thể
nói lượn đã trở thành một thực thể trong đời sống tinh thần, một thành phần
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu bộc lộ tình cảm
của những người dân Tày yêu thích ca hát. Thông qua lượn mà tiếng hát, lời
ca ngân lên mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần
không thể thiếu được trong đời sống tinh thần người Tày.
Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam nữ thanh
niên Tày, Nùng thường dùng hàng ngày. Đây là lối nói tự do, dịch nôm là
“nói chuỗi” thường được diễn ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ
hội… Đó cũng là một hình thức thể hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi
trêu ghẹo tình tứ thể hiện những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời
gian gọt giũa những lời phuối pác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và
mềm mại một chất thơ lãng mạn. Phuối pác là nơi thể hiện tình yêu trai gái.
Nội dung chính của các bài hát này là lòng yêu lao động, tình yêu trai gái, tùy
tài năng và cảm xúc của người hát mà làn điệu bài bản các thể hát đó được
biến hoá, sáng tạo không ngừng. Phuối pác là thể dân ca hát đối đáp, có làn
18