1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

CHƯƠNG 4 MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 111 trang )


đánh giá thực tại, để phán đoán quan hệ giữa người và người, từ đó, phân biệt

thiện và ác, đạo đức và vô luân, đẹp và xấu, hay và dở, những điều thích và

những điều không thích, v.v... Chính trên cơ sở hệ thống biểu tượng và ý

nghĩa như vậy, người ta mới dần dần tạo dựng và củng cố các hệ thống niềm

tin và giá trị; xây dựng các hệ thống thiết chế xã hội và chính trị, cách ứng xử,

phong tục tập quán khác; cuối cùng, dần dần hình thành các sản phẩm văn hóa

như văn học, âm nhạc, nghệ thuật, văn hóa dân gian, v.v...

Với cách hiểu văn hóa như một hệ thống biểu trưng và ý nghĩa như

vậy, người ta dễ dàng nhận ra mối quan hệ hữu cơ mật thiết giữa văn hóa và

ngôn ngữ. Mật thiết đến độ nhiều người cho ngôn ngữ, tự bản chất, là văn

hóa. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa có thể được nhìn thấy từ mấy góc

độ chính:

Một, ngôn ngữ là kho lưu trữ và gắn liền với những kinh nghiệm chung

mà cả văn hóa cộng đồng đều chia sẻ. Chính vì vậy mà ngôn ngữ không chỉ

có có tính nhận thức mà còn có cả sắc thái, tình cảm. Ví dụ, từ “con cò”

không chỉ nhận thức về loài cò mà còn gợi liên tưởng thân phận người phụ nữ

vất vả, cực khổ, chịu nhiều hy sinh. Hai, ngôn ngữ là một trong những

phương tiện chính để lưu truyền văn hóa. Cái gọi là tính chất truyền khẩu

trong văn hóa dân gian (folklore) chính là một minh chứng hùng hồn cho vai

trò của ngôn ngữ trong việc duy trì và nuôi dưỡng văn hóa nói chung. Ba, sử

dụng ngôn ngữ, dưới hình thức nói hoặc viết để chuyên chở điều mình muốn

truyền đạt bao gồm cả ý muốn nói và tình cảm nói.

Tất cả những sự phân tích trên đều nhằm để chứng minh một luận điểm

chính: ngôn ngữ thực chất là văn hóa. Từ những đặc điểm trên, ta thấy, trong

một tác phẩm văn học, nhà văn, nhà thơ là người tái hiện ngôn ngữ của nhân

dân. Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc có điều kiện sống khác nhau (ở

phương diện hình ảnh, ngôn ngữ…) việc lựa chọn sử dụng ngôn ngữ trong tác

79



phẩm vừa thể hiện được tài năng của người nghệ sĩ vừa phản ánh được bản

sắc văn hóa của tộc người đó.

4.1.2 Ngôn ngữ trong thơ Dương Thuấn

Một trong những điểm khác biệt quan trọng nhất của văn học dân tộc

thiểu số với văn học miền xuôi đó là ngôn ngữ. Các tác giả không những sáng

tác theo thể thơ truyền thống mà còn sáng tác theo thể thơ tự do để bắt nhịp

được với hơi thở của cuộc sống. Việc sáng tác thơ bằng tiếng Tày, các tác giả

đã góp phần bảo tồn, gìn giữ nét đặc sắc, độc đáo của ngôn ngữ Tày, gìn giữ

bản sắc văn hóa dân tộc. Các nhà văn nhà thơ dân tộc đều có ý thức rất rõ

trong việc dùng tiếng mẹ đẻ để sáng tác văn chương trong đó đặc biệt (nếu

không muốn nói là nhiều nhất) vẫn là Dương Thuấn mà tuyển tập thơ song

ngữ Tày – Kinh của ông là một dẫn chứng. Dương Thuấn thực sự đã làm phục

hưng ngôn ngữ Tày và văn học Tày. Trước đây có không ít người nói rằng

ngôn ngữ của dân tộc thiểu số sẽ mất đi khi mà mọi vấn đề hiện nay đều bị

quốc tế hóa nhưng Dương Thuấn đã chứng minh ngược lại bằng cách qua tác

phẩm văn học của mình đem đến cho ngôn ngữ Tày sức sống bất tử, vượt qua

mọi thời gian. Bộ tuyển tập thơ song ngữ dày hơn 2000 trang của Dương

Thuấn không chỉ là trường hợp hiếm có đối với văn học trong nước mà cả văn

học thế giới cũng rất hiếm. Tập thơ song ngữ này vừa nêu cao ý thức sáng tác

văn học bằng tiếng mẹ đẻ đồng thời Dương Thuấn cũng thể hiện thái độ muốn

giới thiệu văn hóa của một dân tộc thiểu số đến đông đảo độc giả sử dụng

tiếng phổ thông.

Ấn tượng nổi bật trong ngôn ngữ thơ Dương Thuấn còn là ngôn ngữ

mang chất dân gian đậm nét. Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ chỉ là một khía cạnh

thể hiện tình yêu đối với văn hóa dân gian của Dương Thuấn. Chất dân gian

trong ngôn ngữ thơ Dương Thuấn còn thể hiện ở khát vọng vẽ chân dung

cộng đồng dân tộc mình bằng thơ. Những bài thơ mang tính triết lý như: Ông

80



câu biển, Chuyện đời xưa, Bỏ ruộng làm rẫy, Những bà già, Người trẻ người

già, Chuyện thằng đầu trọc, Đừng buồn lũ quét, Lời của pứt, Của quý, Bài

học niềm tin, Cõng trâu, Bà mẹ xứ Mây, Cô gái núi Hoa, Đoàn người không

bóng… đã tạo nên bức chân con người miền núi đẹp trong lao động và ý chí:

“Bức chân dung ấy đẹp, nhiều màu sắc còn là kết quả của sự thống nhất giữa

cái hư và thực, cái có lý và phi lý, tình cảm và trí tuệ trong việc thể hiện bút

pháp” [52]. Chính trong lời tâm sự cùng bạn đọc báo Văn hóa – Văn nghệ ông

có nói: “Tôi có bút pháp riêng cho từng bài nhưng bạn đọc cũng có thể nhận

ra bút pháp chung cho tất cả các bài thơ của tôi. Đó là câu kết của các bài

thơ bao giờ cũng gây sự ngạc nhiên cho người đọc khiến độc giả phải nghĩ và

nhớ về bài thơ đó. Một cách nữa là tôi thường đẩy sự việc đi đến tận cùng sự

phi lý nhưng sau khi đọc xong rồi người đọc lại thấy có lý”[50].

Đọc thơ Dương Thuấn người yêu thơ không bắt gặp tình trạng công

thức, khuôn sáo mà trái lại thơ Dương Thuấn ngập tràn ngôn từ của đời sống

tuôn chảy theo mạch cảm xúc chứ không theo quy phạm của thể loại. Vì

không bị ràng buộc bởi những công thức nên thơ Dương Thuấn vừa chân

thực, giản dị nhưng không kém phần bay bổng, hồn nhiên, trong sáng mà hóm

hỉnh gợi nhiều suy ngẫm. Ngôn từ trong thơ ông là thứ ngôn ngữ chắt lọc từ

lời ăn tiếng nói hàng ngày, đó là cách nói mang tính truyền thống của người

vùng cao, là sự chân thành, thẳng thắn trước cuộc sống đời thường. Chính vì

điều này Dương Thuấn trở thành thi sĩ “thật” nhất. Hãy nghe ông giãi bày tấm

lòng hiếu khách của người miền núi để từ đó chúng ta sẽ yêu hơn những con

người nồng nhiệt, chân thật nơi đây:

Khách đến nhà không vội hỏi tên

Mà chỉ hỏi:

Con đường nào đã đưa anh đến

Mà nói rằng

81



Hãy uống cạn vò rượu cùng ta

Và khi khách đi chủ nhà chỉ nói

Đừng để cầu thang nhà tôi mọc cả gà

Một câu nói tưởng chừng chẳng ăn nhập gì với sự quyến luyến, bịn rịn

chia tay khách trước lúc khách ra về nhưng ẩn sâu trong ấy là một sự mong

mỏi, ngóng chờ: khách sẽ trở lại thăm nhà mình và khi đó cầu thang sẽ không

có chỗ cho cỏ mọc. Cái thẳm sâu của lòng người miền núi được biểu hiện bởi

một câu nói rất mộc mạc đơn sơ.

Cảm thức văn hóa về quê hương luôn khiến nhà thơ bật ra những lời

thơ chân thực, tự nhiên nhất:

Quê hương không đủ chỗ đánh rơi đồng xu

Ba bước chân gặp núi

Ra khỏi cửa là leo là lội

Bằng ngôn ngữ mộc mạc của lời ăn tiếng nói hằng ngày, Dương Thuấn

đã trở thành họa sĩ vẽ bức tranh quê hương bằng ngôn từ sinh động, hiện thực

nhất. Vì vậy mà hiếm có nhà thơ nào có được phong vị đậm đặc về quê hương

bản quán trong sáng tác như Dương Thuấn. Bao trùm các trang thơ ông luôn

là cảm hứng ngợi ca cuộc sống, ngợi ca quê hương đất nước. Mỗi nhà thơ đều

có một vùng quê riêng, gắn với bao kỷ niệm yêu dấu của cuộc đời. Quê

hương Dương Thuấn là vùng cao Việt Bắc hùng vĩ chính vì thế mà những vần

thơ của ông về quê hương bao giờ cũng phóng khoáng, bay bổng như chính

tâm hồn của người dân miền núi:

Quê tôi núi ngàn cao vời và lớn rộng

Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung

Chiều về từng đàn mây vờn nhau trên cỏ

Xuân đến hoa đào nở đỏ, hoa lê trắng ngần…

(Quê tôi núi ngàn)

82



Những vần thơ giản dị trên được viết bằng một tư duy thơ thuần phác

miền núi đặc sắc, cách nói “đàn mây” đã biến mây trở thành những con vật

gần gũi với đời sống lao động sinh hoạt của người dân. Đó cũng là một nét

sáng tạo mang dấu ấn riêng của thơ miền núi hôm nay.

Lối quan sát gần, thực với những liên tưởng rất cụ thể, có thể tìm thấy

trong khắp các tập thơ của Dương Thuấn. Lối quan sát này tương ứng với loại

thơ nói – kể của người miền núi – đơn giản, rõ ràng không rối rắm phức tạp

nhưng không vì thế mà nó thô sơ. Ngôn ngữ thơ Dương Thuấn không có cái

điêu luyện như thơ Lương Định hay lối nói tưng tửng mà nghiêm túc, triết lí

đơn giản mà sâu sắc cùa Lò Ngân Sủn. Thơ Dương Thuấn luôn giản dị, đôi

khi nhà thơ đẩy giản dị lên đến tận cùng giới hạn:

Đi lâu lâu

Về lâu lâu

Cái cầu thang có dấu chân của mẹ…

(Về bản)

Ngay cả khi Dương Thuấn triết lý thì cũng vẫn là kiểu ngôn ngữ chân

chất, mộc mạc ấy: Người làm nương ăn theo lửa/ Người làm đồng ăn theo

nước/ Sinh ra tắm nước thơm/ Mới là con của mẹ/ Lớn lên tắm nước sông/

Mới là người của làng/ Đóng con tàu vượt bể/ Tắm giữa đại dương/ Mới

thành con của muôn nơi (Theo nước đi).

Thơ cần có độ nén, cô đọng, độ sâu, tính hàm súc, đa thanh, đa nghĩa.

Đấy là lý tưởng ngôn ngữ thơ của các thi nhân xưa. Ngày nay về cơ bản, ngôn

ngữ thơ vẫn cần phải có tính hàm súc nghệ thuật nhưng không có nghĩa quá

dụng công sáng tạo nên những tầng nghĩa phức tạp, rối rắm sẽ làm thơ trở nên

mơ hồ, khó hiểu, xa rời đời sống, quần chúng. Với cách nói đơn giản, mộc

mạc, Dương Thuấn phần nào đã giải thoát thơ ra khỏi sự phức tạp không cần



83



thiết của lối suy luận, diễn giải học để đưa người đọc tiếp cận với sự vật sự

việc trong thơ đúng như bản thể của chúng.

M.Gorki quan niệm: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn chương. Điều

đó đúng bởi vì muốn thành văn chương phải nhờ chất liệu sinh động của ngôn

ngữ. Tuy nhiên giỏi ngôn ngữ chưa dễ làm được nhà văn, nhà thơ vì văn

chương chỉ phát lộ ở trong trái tim, khối óc. Từ ngôn ngữ đời sống qua lăng

kính của nhà thơ mang vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng bởi Dương Thuấn sáng

tác thơ với một tư duy độc lập, bất ngờ táo bạo chứ không đơn thuần chỉ là

nhặt nhạnh, ghi chép máy móc:

Tiếng ếch đồng buồn lắm

Một tiếng kêu nghe ốm ba ngày

Người già còn mài dao

Con trẻ đừng quên tập nỏ

Hãy cúi đầu trước từng ngọn cỏ

Cây cong còn có kẻ rào vườn

(Với Bàn Tài Đoàn)

Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh nghệ thuật, cách nói phóng đại (tiếng ếch

kêu ốm ba ngày) rồi nhún nhường (cúi đầu trước ngọn cỏ), hình ảnh tượng

trưng (người già mài dao, trẻ con tập nỏ) – cách nói này phù hợp với lối nói

và sinh hoạt của đồng bào Tày. Viết như vậy thoáng nghe có vẻ mộc mạc

nhưng thực tế là lối nói ví von, hình ảnh dễ nghe dễ cảm; là lời nói thật thà

vừa gần gũi vừa có tính khắc họa sâu. Tất cả điều đó hiện lên như kinh

nghiệm sống như chắt lọc từ trái tim, tâm tưởng, là truyền thống của lớp cha

anh đi trước truyền lại cho thế hệ sau.

Ở những bài thơ khác, chúng ta bắt gặp cách xây dựng ngôn ngữ giàu

hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, có tính khát quát cao nhiều tình, nhiều nghĩa, hàm



84



súc cao. (Ví dụ: Cõng trâu, Phố huyện, Ông câu biển…). Như trong bài Ông

câu biển, hình ảnh người dân chài hiện lên bình thản, kiên gan, yêu lao động:

Đứng trên sóng

Ngồi trên sóng

Câu một bể cơm…

Sóng cong thành rắn dữ

Trời mưa tuôn cũng đành

Từ đây, tác giả nâng tầm “nhân vật” - người lao động - ông ngư dân lên

thành “ông câu biển” - thể hiện sự chế ngự biển cả, tâm thế làm chủ thiên nhiên:

Ai đi câu lợi. Ai đến câu ông

Mắt ông chỉ nhìn thấy biển

Tai ông chỉ nghe thấy biển

Ông câu bóng mình

Giáo sư Hà Minh Đức nhận định: “Cảm xúc và trí tưởng tượng là hai

mặt hoạt động hỗ trợ gần gũi của tư duy thi ca để tạo nên phần máu thịt chủ

yếu của hình tượng thơ”[6]. Vì vậy nếu không có cảm xúc, không có trí tưởng

tượng phong phú, không giàu ngôn ngữ nghệ thuật thì cũng không thể có

những bài thơ hay, ấn tượng. Ở đây điều quan tâm nữa là Dương Thuấn đã

làm chủ được ngôn ngữ nghệ thuật. Tiếng Việt đối với ông không chỉ là ngôn

ngữ học vấn mà còn là ngôn ngữ nghệ thuật. Là người sử dụng tiếng Việt như

ngôn ngữ giao tiếp chung của quốc gia thì việc dùng các biện pháp tu từ tiếng

Việt – phương tiện nhiều tầng nghĩa để sáng tạo thơ là một thành công lớn

của Dương Thuấn. Thơ Dương Thuấn mộc mạc, giản dị với lối kể hiền lành,

uyển chuyển, nhẹ nhàng, dân gian, dân tộc và có bố cục kết cấu vừa phải,

ngắn gọn, đúng như nhà thơ Lò Ngân Sủn đã nhận xét: “Phải chăng đó là cái

tạng, cái duyên, vẻ đẹp của Dương Thuấn – bởi cái thô mộc của sự trau

chuốt, chắt lọc, gọt dũa, ít mà nhiều, chật mà rộng, ngắn mà dài”[28]. Với

85



những ai ưa thích lối diễn giải trong thơ ca thì chắc chắn sẽ thất bại khi tìm

hiểu thơ Dương Thuấn bởi thơ ông không có chỗ cho những uẩn khúc vòng

vo. Nhưng có lẽ, sự độc đáo của thơ Dương Thuấn cũng chính là ở sự gần và

thực ấy. Thực nhưng không thô, giản dị nhưng không sơ sài mà trái lại vẫn

đầy sức lôi cuốn.

Tuyển tập thơ Dương Thuấn gồm 3 tập song ngữ ngoài các bài thơ còn

bao gồm hai trường ca Mười bảy khúc đảo ca và Bi phẫn. Vì vậy ngôn ngữ

trường ca còn là điểm mạnh khi bàn tới ngôn ngữ thơ Dương Thuấn. Mười

bảy khúc đảo ca là hành trình ra với biển còn Bi phẫn là hành trình trở về. Hai

trường ca tạo thành một hành trình ra đi để nhận thức về Tổ quốc, trách nhiệm

công dân và trở về để chiêm nghiệm, suy ngẫm lại những giá trị Chân - Thiện

- Mỹ trong cuộc đời của nhà thơ. Nếu như trong Mười bảy khúc đảo ca nhân

vật là những thủy thủ, người lính canh giữ biển đảo của Tổ quốc thì nhân vật

trong Bi phẫn là những cô gái, chàng trai, ông bà già, trẻ em trong cuộc sống

hằng ngày. Mười bảy khúc đảo ca tái hiện lại cuộc sống lao động và bảo vệ

biển đảo Tổ quốc và ngợi ca sức mạnh đoàn kết của dân tộc chínhh vì vậy mà

ngôn ngữ của trường ca này mang tính biểu cảm ngợi ca. Những từ ngữ trang

nghiêm, hào hùng, chính luận được sử dụng nhiều như: lá cờ Tổ quốc, đất

nước, ngôi nhà lớn, pháo đài, quân thù, chủ quyền dân tộc… nhằm nhấn mạnh

khí thế hào hùng, hiên ngang của người chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ

đất nước:

Có gì thiêng liêng như lá cờ Tổ quốc…

Lá quốc kỳ ở đây là chủ quyền dân tộc

Có núi, có sông, có đồng, có biển

Cả nước cùng chung một lá cờ…

(Hồi tưởng trước lá cờ)



86



Thế mạnh của Dương Thuấn là hiểu sâu và khai thác tốt mảng đề tài

liên quan bằng một kết cấu và ngôn ngữ thích hợp tạo ra được nét phong cách

độc đáo. Nhà thơ phát huy tốt đa khả năng xây dựng câu từ thể hiện tinh thần

cơ bản theo chủ đề của mỗi khúc ca. Song Mười bảy khúc đảo ca không chỉ

có mỗi ngôn từ biểm cảm “ca ngợi” mà hòa trong xu hướng đa dạng hoá

trường ca, khi trường ca đi vào cuộc sống đời thường thì cảm xúc lại được thể

hiện bằng ngôn ngữ thông tục. Ngôn từ biểu cảm của anh thực sự là ngôn từ

giao tiếp hàng ngày, với những từ ngữ thuộc khẩu ngữ rất đời thường:

- Muốn để khách ngủ ngon

Họ nằm yên vờ ngủ

(…)

Có thứ gì liên hoan thứ ấy

Đây lính biển đãi khách nhà thơ…

Nào mì khô, nào nước mắm

Nào hải sâm, cá mực, tôm , cua…

(Đêm thần tiên)

Trái ngược với Mười bảy khúc đảo ca - hành trình ra đi để nhận thức về

thế giới và trách nhiệm con người thì Bi phẫn lại là sự trở về để chiêm nghiệm

lại những gì đã trải qua, nhận thức lại những giá trị đích thực trong cuộc đời.

Tại sao gọi là Bi phẫn, nhà thơ đã giải thích ở chương cuối Dạo chơi và nghĩ:

Con người khi sinh ra khóc bi phẫn

Con người lớn lên nhờ bi phẫn

Bi phẫn mà tôi viết trường ca

Bi phẫn thành vui, tôi viết chơi mà…

Bi phẫn là những suy tư, bộc bạch, những câu hỏi được tác giả đặt ra trước

muôn vàn vấn đề của cuộc sống vì vậy mà ngôn ngữ ở trường ca thứ hai này

là ngôn ngữ tự vấn, được coi là một kiểu diễn đạt phù hợp với đặc điểm suy

87



tư triết lý. Nói suy tư triết lý chỉ là một cách đặt tên cho một xu hướng, thực tế

các nhà thơ không phải là những nhà triết học. Họ chỉ là những người muốn

cho thấy mình có trách nhiệm với dân tộc, với Tổ quốc. Họ bộc bạch những

suy tư về những vấn đề hết sức quen thuộc, diễn ra hằng ngày trong cuộc sống

của đồng bào mình từ đó nhận ra đâu mới là giá trị đích thực, đáng nâng niu

trân trọng.

4.2 Giọng điệu

4.2.1 Giới thiệu về giọng điệu

Trong các tác phẩm nghệ thuật ưu tú, giọng điệu bao giờ cũng mang

tính chất lượng, nó là sản phẩm sáng tạo đích thực của nhà văn. Giọng điệu

văn chương là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Giọng

điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một tác giả tài năng bao

giờ cũng phải tạo được một giọng điệu độc đáo. Giọng điệu gắn với cảm hứng

chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn

chương.

Thế nào là giọng? Theo Từ điển Tiếng Việt [37] thì: Giọng là:1/ Độ cao

thấp, mạnh yếu của lời nói, tiếng hát. 2/ Cách phát âm của một địa phương. 3/

Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị một thái độ, tình cảm nhất định. 4/

Gam đã xác định âm chủ.

Như vậy trong cuộc sống hằng ngày giọng được hình dung trước hết

như một tín hiệu âm thanh có âm sắc, trường độ, cao độ. Khái niệm giọng chủ

yếu nói về người, gắn với người, là giọng nói của người dùng trong ngôn ngữ

giao tiếp của mỗi người. Không chỉ tồn tại như một âm thanh, giọng nói của

người còn hàm chứa thái độ của người nói, chính ở đây người ta thường nói

đến giọng điệu.

Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ biên soạn cho rằng giọng điệu là

“giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định”. Như vậy “giọng” là yếu tố

88



mang đậm tính vật lý trong khi “giọng điệu” lại được nhìn từ góc độ tâm lý.

Nhìn vào 2 định nghĩa về giọng và giọng điệu, ta thấy định nghĩa giọng điệu

trùng với nét thứ ba của định nghĩa về giọng. Vậy nên trong thực tế giao tiếp,

tùy vào hoàn cảnh, người ta thường đồng nhất hai khái niệm này. Như vậy có

thể nói có bao nhiêu hoàn cảnh giao tiếp, bao nhiêu nhân vật tham gia giao

tiếp thì có bấy nhiêu giọng điệu, ví dụ như: giọng khinh nhờn, bỡn cợt, chế

giễu, trịnh thượng, cung kính, vui sướng, thỏa mãn, chanh chua, hiền

hậu…..Rõ ràng giọng điệu thường thể hiện tâm tính con người, phản ánh tâm

trạng của họ. Âm thanh giọng điệu cũng phù hợp với nội dung cảm xúc, khi

vui giọng vang rõ, khi buồn giọng lắng lại, thấp xuống…

Trong cuộc sống giọng điệu thường mang tính nhất thời, khác với

giọng điệu trong tác phẩm văn học. Trong nghệ thuật, giọng điệu bao giờ

cũng được tổ chức công phu, là kết quả của một quá trình sáng tạo thực thụ.

Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ thuộc vào hệ thống không

phải là ngẫu hứng.

Không chỉ hàm chứa cảm xúc, thái độ của người nói, giọng điệu còn

thể hiện nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính của chủ thể phát ngôn. Giọng trẻ con

khác giọng người lớn, giọng người từng trải khác giọng người non nớt, giọng

người ít học khác với giọng người trí thức….

Giọng điệu như một hiện tượng nghệ thuật nhưng không nên tạo ra sự

ngăn cách giả tạo giữa giọng điệu trong đời sống với giọng điệu trong văn

chương. Trong tác phẩm văn học, giọng điệu cũng mang đặc tính âm thanh.

Ngay cả khi đọc thầm một câu thơ, câu văn, trong tâm trí người đọc vẫn vọng

lên cái âm hưởng, thậm chí đường nét của âm thanh. Chỉ có điều khi trở thành

một hiện tượng thẩm mĩ, cấu trúc và cơ chế vận hành của giọng điệu văn

chương phức tạp hơn nhiều so với giọng điệu thường ngày.



89



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

×