Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 111 trang )
mắt ra cậu thấy nhiều điều kì lạ nhưng khi nhắm mắt vào lại thấy một thế giới
khác cũng vô cùng thích thú không kém gì thế giới thực.
Tập Thơ tình với hơn hai trăm bài lại là những cung bậc yêu. Con mắt
yêu của nhà thơ đã khám phá được nhiều vẻ đẹp trong tâm hồn các chàng trai
cô gái miền núi đầy bất ngờ, đầy táo bạo. Bùa mê, quả yêu là những thứ hấp
dẫn trai gái ở khắp nơi từ muôn thuở, muôn đời nhưng thứ tình mãnh liệt, bạo
dạn mà không bi lụy, sướt mướt mới là nét tính cách yêu của trai gái dân tộc
Tày mà Dương Thuấn đã phát hiện được.
Với tập Bản Hon và những nơi khác thì đó là cách nhìn thế giới của
một người đàn ông đã chín chắn, trưởng thành với nhiều trải nghiệm về cuộc
sống bằng hành trình đi nhiều, nghĩ nhiều và viết nhiều. Mỗi bài thơ là một
câu chuyện về cuộc sống, lẽ nhân sinh. Có lẽ quê hương, tuổi thơ với những
câu chuyện huyền thoại về hồ Ba Bể, sông Năng, bản Hon và những chuyến
đi thực tế đã chắp cánh cho tâm hồn thơ Dương Thuấn. Thơ ông tạo nên sức
hấp dẫn, sức lôi cuốn mạnh mẽ và sức khái quát rộng lớn bởi nhà thơ có được
con mắt nghệ thuật tinh tế, có sự đắm chìm vào cuộc sống, gắn bó sâu sắc và
chiêm nghiệm hiện thực ấy.
2.3.1 Triết lí của một chàng trai miền núi
Có người nói rằng, Dương Thuấn nhìn vào đâu cũng “nhả ra” thơ tuy
nhiên sống giữa đô thị phồn hoa mà thơ ông luôn mang đậm những đặc trưng
văn hóa và hơi thở vùng cao. Có lẽ với Dương Thuấn, cảm xúc để bật lên
thành thơ không phải cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp sự vật hay điều gì
lúc đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm trong tận đáy sâu tiềm thức của tâm hồn
đã có sẵn. Tình yêu quê hương, sự am hiểu truyền thống văn hóa dân tộc…
mọi thứ phải có từ trong tiềm thức để cảm xúc luôn thường trực thì khi nhìn
thực tế mới có cộng hưởng ngân vang lên thành âm thanh và câu chữ. Thơ
Dương Thuấn nói về nhà sàn, cầu thang, nói về ông bà, cha, mẹ, anh em bạn
50
bè đầy thân thương. Cảnh vật con người miền núi đi vào thơ ông giản dị, mộc
mạc, không khoa trương. Vốn sống, sự gắn bó với núi rừng bản làng đã giúp
nhà thơ truyền tải được những tâm sự để rồi đúc kết thành kinh nghiệm, bài
học nhận thức về cuộc sống chân thực, hình tượng. Cuộc sống của con người
miền núi với nét đặc trưng về sinh hoạt, văn hóa là chất liệu tạo nên những
hình ảnh thơ độc đáo mang nhiều ý nghĩa (Cưỡi ngựa, Cõng trâu, Những ông
già gieo hạt, Cọn nước, Phố huyện…). Người đọc bất ngờ bởi những sự vật
bình thường của cuộc sống qua con mắt của Dương Thuấn hiện lên đậm chất
thơ, phong phú và tươi mới. Ví như trong bài Cưỡi ngựa, qua cái nhìn hồn
nhiên, ngộ nghĩnh của cách nhìn, cách nghĩ của trẻ thơ về một trò chơi lại thể
hiện một triết lý: Buông dây lỏng/ Ngựa lì/ Cầm cương ghì/ Ngựa chạy/ Muốn
ngựa nhảy/ Quất roi
Bài thơ đem đến cho độc giả nhiều suy ngẫm. Có thể với các em thiếu
nhi thì bài thơ chỉ là một sự chỉ dẫn để cưỡi ngựa nhưng lớn thêm một chút
các em sẽ hiểu ngụ ý sâu xa của ba câu thơ ngắn này: việc cưỡi ngựa cũng
giống như việc định hướng cuộc đời, nếu cứ để cuộc đời trôi không chủ
đích thì sẽ mất phương hướng. Ngược lại, muốn đạt được nhiều bước nhảy
vọt thành công thì phải quyết tâm, mạnh dạn và cố gắng hết mình. Ý nghĩa
bài thơ sâu sắc nhưng ở đây không có sự cao đạo, lên giọng truyền giảng
mà cũng không phải là lối nói “cưa sừng làm nghé”, tác giả chỉ ngụ ý để
mỗi lứa tuổi có thể hấp thụ theo một cách riêng. Hay trong bài Cõng trâu,
tác giả nói về hình ảnh người dân miền núi kiên trì, nhẫn nại chiến thắng
hoàn cảnh khó khăn:
Ở vùng cao con người vất vả
Chiếc gùi đè nặng trên lưng
Cõng hết cửa nhà, ngô lúa
Cõng trâu leo lên núi trập trùng
51
Bằng một cách viết giàu chất thơ, chất ân tình tác giả thể hiện cái nhìn
dung dị mà nhiều ưu ái với những người nông dân cần cù biết vượt lên hoàn
cảnh sống bằng chính sức lao động chân chính. Người đọc nhiều khi bất ngờ
vì một cái gì đó vừa rất trong sáng, đáng yêu, vừa ngồ ngộ, vui vui lại được
diễn đạt bằng cách nói rất dân tộc, độc đáo mà chỉ người vùng núi mới có.
Sinh ra trên quê hương: Không đủ chỗ đánh rơi đồng xu/ Ba bước chân
gặp núi/ Ra khỏi cửa là leo là lội vì thế mà ngay từ ngày còn nằm nôi, Dương
Thuấn đã được cha mẹ nuôi dương khát vọng “ra đi” để tìm cho mình chân
trời tri thức. Ông đã tự ngẫm về hành trình đi thực hiện khát vọng của mình:
Sinh ra tắm nước thơm
Mới là con của mẹ
Lớn lên tắm nước sông
Mới thành người của làng
Đóng con tàu đi ra bể
Tắm giữa đại dương
Mới thành người của muôn nơi
Lời thơ giản dị nhưng ý tứ lại hết sức sâu xa về quá trình trưởng thành
của một con người từ con người gia đình đến khi trở thành thành viên của xã
hội. Hành trình ấy thôi thúc Dương Thuấn ra đi để trưởng thành nhưng càng
học nhiều càng đi xa bao nhiêu thì nhà thơ lại càng có sự chiêm nghiệm sâu
sắc:
Sinh ra làm người chẳng thể ngồi an
Khi ra bể lại muốn lên non
Khi lên non lại muốn về với bể
(Đi ngược mặt trời)
“Đi ngược mặt trời” chính là sự trở về với chính mình của Dương
Thuấn. Nỗi niềm mong ngóng được trở về quê hương cứ đau đáu khôn nguôi
52
vì thế mà thơ Dương Thuấn luôn mang cảm hứng của hồi ức, sự ngoái lại để
suy nghĩ khiến thơ ông giàu chất suy tư, trăn trở. Ta bắt gặp một cái tôi trải
nghiệm được hình thành sau những tháng ngày đi xa và cũng thấy Dương
Thuấn triết lý nhiều hơn. Như một người già, Dương Thuấn cảm nhận sâu sắc
về sự vô tận thời gian bên cạnh sự hữu hạn của đời người. Những đổi thay của
cảnh vật, làng xóm dù nhỏ nhất như một cành cây gãy, một cây si già nua hay
người già mất đi cũng đủ làm nhà thơ thảng thốt nhận ra quy luật tuần hoàn
khắc nghiệt của kiếp người: Người rủ nhau đi đâu/ Cảnh mỗi ngày mỗi khác”
(Về bản). Tuy nhiên khác với các thi sĩ khác khi đứng trước sự bào mòn của
thời gian với con người thường sẽ chọn thái độ sống gấp hoặc bi lụy thì
Dương Thuấn đến cuối bài thơ lại cho ta thấy sự lạc quan, vui vẻ: Trẻ con
chạy ra chào/ Người lớn chạy ra chào/ Người vui rối rít/ Cả bản xao xao.
Vẫn là tính cách mạnh mẽ của đứa con núi rừng quy luật đào thải của thời
gian như động lực để nhà thơ tìm được cách ứng xử thanh thản hơn. Tiếng
“rối rít”, “xao xao” ấy báo hiệu sự kế tục của lớp lớp con cháu và sự sống này
là không thể hủy diệt.
Sức hút của thơ Dương Thuấn nằm chính trong sự chân thực, không
chút kiểu cách nhưng đó là những câu thơ có khả năng đánh thức rung cảm
trái tim người đọc sâu sắc nhất. Sự khắc khoải ấy đã làm thành tính trữ tình
chiêm nghiệm trong thơ Dương Thuấn như trong bài Phố huyện:
Có chú bé con đi theo mẹ
Qua phố đếm xem phố mấy nhà
Bà mẹ còng lưng gùi muối nặng
Đếm bước chân về núi mờ xa
Phố huyện của Dương Thuấn không ồn ào, náo nhiệt như phố ở dưới
xuôi. trái lại nó mang thanh âm yên ả của núi rừng. Mặc dù các sự vật, con
người được kể tên trong bài thơ đều có hành động, suy nghĩ: núi lim dim, mây
53
nặng nhọc chở buồn, chim khách kêu em gái ngóng tin, chú sóc nâu kêu âm
âm, tiếng lá rơi, chùm rễ đa buông xòa, chú bé đếm nhà, bà mẹ gùi muối đếm
bước chân, nhưng toàn bài thơ lại nổi bật lên cái tĩnh lặng, im ắng của phố
huyện. Không gian có yên lặng thì tác giả mới cảm nhận được từng chi tiết,
cử động của sự vật. Và có lẽ đó cũng là cái hồn rất riêng của phố huyện ở
miền núi.
Dù sống ngay giữa bản làng hay khi đã trở thành người của muôn nơi
thì nhà thơ vẫn luôn luôn là người con của bản Hon. Những suy nghĩ, chiêm
nghiệm bắt nguồn từ những sự vật quen thuộc mái nhà sàn, cái cầu thang, cái
cọn nước, tiếng mõ trâu, con đường mòn… từ góc nhìn của Dương Thuấn trở
nên hồn nhiên, chân thật nhưng không kém phần ý nhị, sâu sắc. Nhà thơ sinh
ra từ bản của người có mào (Bản “Hon” trong tiếng Tày có nghĩa là bản có
mào), “theo nước đi” “đến khắp trăm nơi”, “qua ngàn vạn cánh rừng”, “đến
trăm nơi biết muôn vàn thứ” nhưng ông vẫn đau đáu về bản Hon, dân tộc và
đất nước mình:
Tôi – Đứa con của của bản Hon
Đứa con của dân tộc Tày
Tôi – Người con của Tự do
Công dân của nước Việt Nam độc lập
(Từ bản Hon đến Washington)
Lời thơ như lời tuyên ngôn về nguồn gốc xuất thân và hơn thế nữa, tác
giả khẳng định vị thế cá nhân, dân tộc, đất nước mình sánh ngang cùng thế
giới. Ông nêu cao ý thức giữ gìn bản sắc của dân tộc, cách nhìn, cách nghĩ,
cách nói của chàng trai miền núi làm cho giọng thơ triết lý đượm vẻ tự nhiên.
2.3.2 Triết lý của một người đi nhiều
Từ cuộc sống đi nhiều, quan sát kĩ và nghe nhiều, nhà thơ muốn gửi
đến người đọc vẫn là chuyện muôn thuở của loài người triết lý về tình người.
54
Đi nhiều, gặp nhiều, thấy nhiều, Dương Thuấn có cái nhìn đối chiếu về hiện
tượng, sự vật trong cuộc sống đặc biệt là những giá trị văn hóa truyền thống.
Một mặt là phong tục tốt đẹp muôn đời, một mặt là sự tác động của đời sống
kinh tế. Những thay đổi môi trường sống, cách sống: Cây rừng bị phát hết
làm nương/Con hươu chẳng có đường nào nữa/ Như mũi tên lao đi giữa đồi
không (Hươu rừng chạy về bản) hay Nghĩ chuyện làm ăn cũng khác đời (Làm
ăn) cùng những nghịch lý, bất công: Kẻ đang nguyền rủa thì cuộc đời lại yêu/
Người đáng kính trọng thì cuộc đời lại ghét (Kẻ ngu dốt và người thông thái).
Đặc biệt trong rất nhiều sự thay đổi tiêu cực đó thì văn hóa tập tục cũng bị
lung lay:
Đầu thế kỉ hai mươi mốt bờ rào đã mọc lên
Cái bờ rào nhìn vừa đáng yêu vừa đáng ghét
(…)
Không còn lo ban đêm có kẻ trộm đến rình
Sang nhà nhau phải đi vòng hơn một chút
(Cái bờ rào)
Tiện lợi của hàng rào ai cũng nhận ra nhưng chỉ có điều không tiện lợi
về tình cảm hàng xóm láng giềng. mặc dù: Chẳng ai thích đâu xây bờ rào
ngăn giữa/ Dẫu không muốn nhưng nay đành phải thế. Lời thơ, hình ảnh thơ
tự thân đã đem đến những suy ngẫm trực diện về hiện tượng thoạt nhiên rất
đỗi bình thường. Từ cái bờ rào ở bản lại có thể hiểu đến những rào chắn trong
cuộc đời, trong sự cư xử tình cảm giữa con người – con người thời kì đô thị
hóa nông thôn.
Năm 1995, Dương Thuấn ra mắt tập thơ Đi ngược mặt trời, ở tập thơ
này vẫn là những chuyến đi nhưng hình như sau một thời bươn trải nhà thơ đã
tìm ra được kết luận đích thực cho mình: “Sinh ra làm người chẳng thể ngồi
an/ Khi ra bể lại muốn lên non/ Khi lên non lại muốn về với bể”. Đi ngược
55
mặt trời chính là cái tôi trải nghiệm sau những chuyến đi. Đó là cái tôi nặng
nỗi niềm, lắm suy tư, giàu băn khoăn trăn trở… đôi khi còn thoáng một nỗi
buồn, chán nản thậm chí là khinh bạc:
Đêm đô thành ta đạp đổ
Ta là chàng trai núi khinh đời
Ta chẳng cần đô thành em đã biết hay chưa
Chẳng cần biết em qua bao ngôi nhà bị đổ…
Sau một thời va chạm và cọ xát với cuộc đời, nhà thơ còn nằm tính sổ
với chính mình:
Túi tình đầy bạc vạn
Đã tiêu hết với đời
Giờ không còn dính túi
Dù chỉ một chút hơi
Tư thế khinh đời có lúc đẩy cái tôi Dương Thuấn trở nên đơn côi nhưng
lại là cái đơn côi kiêu hãnh, kiêu sang:
Đi qua trăm miền quê
Chẳng nơi nào để nhớ
Đọc thơ Dương Thuấn, độc giả tự rút ra nhiều hiểu biết, kinh nghiệm
nhận thức, kinh nghiệm sống… Vì vậy thơ ông chính là sản phầm của sự kết
hợp thống nhất giữa tình cảm và trí tuệ. Thơ triết lý của Dương Thuấn đặc
biệt hay ở những bài viết về tình người, cách đối nhân xử thế và tình yêu. Các
bài thơ: Lá giầu, Ba quả tim của đàn ông, Cực tình, Người làm đồng, Những
bà già, Ớt gạo, Ông lão chăn trâu kể chuyện, Đêm bên dòng sông yên tĩnh,
Con rết vua, Cơn lũ rừng – cơn lũ thời gian, Vợ và người tình, Cành nắng,
cành râm… tiếp nối mạch thơ triết luận về cuộc đời. Cách triết luận của
Dương Thuấn là kể một câu chuyện, thuật lại các hiện tượng, nêu lên một
56
nhận xét còn ý nghĩa triết luận lại nằm ở bạn đọc - độc giả sẽ tự đọc và rút ra.
Chính điều này đã làm cách làm tăng tính tư tưởng cho thơ của Dương Thuấn.
Hành trình ra đi của Dương Thuấn một phần thỏa mãn khát vọng quan
sát, khám phá thế giới của ông đồng thời nó còn bồi đắp cho nhà thơ tình yêu
và lý tưởng dân tộc. Tính triết lý ở đây không còn là những bài học, những
kinh nghiệm sống hàng ngày nữa mà là những chiêm nghiệm mang chiều kích
dân tộc đất nước, thể hiện tính tư tưởng, tình yêu Tổ Quốc của tác giả. Điều
này thể hiện rất rõ qua trường ca Mười bảy khúc đảo ca. Tác phẩm mang
chiều sâu tư tưởng của thi ca, cháy lên sức mạnh Khảm hải mà nhà thơ mang
trong dòng máu của dân tộc mình:
Ôi cơn khát trong ta
Mơ vượt qua biển lớn
Biển dài rộng nhường nào
Nếu so với biển đời trước mặt
Sóng nổi đất bằng
Dễ muôn lần nếu vượt khơi xa
Tác giả luôn gắn cái thực với cái tưởng tượng, luôn gắn cái trực giác
với cái sâu xa – lý tưởng. Vượt muôn ngàn sóng gió ở biển dù có khó khăn
gian khổ nhưng vẫn còn dễ hơn ngàn lần so với vượt khó khăn khi sống giữa
biển đời. Từ một chàng trai của núi nay được ra với biển, Dương Thuấn chăm
chú quan sát, lắng nghe, cảm nhận và vỡ ra nhiều lẽ: Đất cũng như thở phập
phồng/ Mỗi buổi bình minh lên (Nói với đất liền), Ôi mặt trời thật nhanh/
Không dậy sớm không thể thấy bình minh (Hỏi mặt trời), Ở biển cá voi đây là
chúa/ Khác với chúa sơn lâm là ác/ Cá voi lại “hiền lành” (Đàn cá voi)…
Mỗi khúc ca, khi xây dựng nhà thơ đều chú ý đặc trưng của trường ca. Chủ đề
của mỗi khúc ca được nhà thơ tập trung khai thác, làm rõ. Khúc ca Hồi tưởng
trước lá cờ, Pháo đài, Bão giông đã tái hiện lại những trang lịch sử hào hùng,
57
vinh quang nhưng cũng không ít hy sinh của dân tộc ta. Ngôn ngữ trường ca
không nhiều tầng nghĩa như ở thơ song có nhiều câu, nhiều đoạn, tác giả đã
khéo léo tạo ra những nét bất ngờ, những hình ảnh chọn lọc mà vẫn đảm bảo
tính tư tưởng, tính giáo dục của thể loại. Kết lại trường ca, nhà thơ mở ra sự
định hướng - “hướng đạo” cho thế hệ trẻ - chủ nhân của đất nước về tình yêu
quê hương đất nước và những giá trị lịch sử:
Bài địa lý hôm nay em học:
Là cánh cửa mở vào đất nước nghìn năm
Em hãy đi và nghĩ
Em hãy sống và yêu
Em sẽ hiểu cuộc đời lớn rộng
…Em sẽ hiểu giữa biển khơi xa sóng hát điều gì…
(Khúc cuối không tên)
Sự phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc (dân tộc Tày) cùng ý thức vai trò,
trách nhiệm công dân của dân tộc Việt Nam trong thơ Dương Thuấn đã đưa
thơ ông lên tầm tư tưởng, thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
Cảm thức văn hóa trong thơ Dương Thuấn được thể hiện một cách toàn
diện đối với những giá trị văn hóa của dân tộc ông. Núi non, đất trời của miền
cao và nền văn hóa Tày đặc sắc đã kết tinh thành tiếng thơ Dương Thuấn độc
đáo hôm nay. Tiếng thơ là tiếng lòng, phải yêu quê hương đến nhường nào thì
nhà thơ mới sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ đến như vậy đúng
như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định về thơ Dương Thuấn: “Anh
chân thành, hồn nhiên dẫn mọi người về tận nguồn cội của một đời sống
thuần phác, giàu ân tình, giàu cốt cách của dân tộc anh, để mọi người cùng
yêu cái anh yêu, cùng được tắm gội trên một vùng sông nước thật trong
trẻo”[tr.9, 33].
58
CHƯƠNG 3
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN
3.1 Thế nào là biểu tượng văn hóa
Trở lại với khái niệm văn hóa (xem Chương 1 mục 1.1.1 Khái niệm văn
hóa), ta thấy sự hình thành và phát triển văn hoá luôn dựa vào năng lực của
con người trong việc nhận thức và sáng tạo ra các loại hình ngôn ngữ kí hiệu biểu tượng. Trong mọi nhu cầu của đời sống xã hội thì nhu cầu văn hoá là nhu
cầu cao nhất - nhu cầu giải trí và sáng tạo ra các tác phẩm văn hoá. Sự đa
dạng của văn hoá biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu
tượng. Nó là hình ảnh tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận
một giá trị, tức là thế giới của ý nghĩa, cũng là thế giới của văn hoá.
Nhiều nhà nhân học văn hoá còn cho rằng đơn vị cơ bản của văn hoá
chính là biểu tượng - vật hàm chứa thông tin, và là hạt nhân di truyền xã hội
đầu tiên của loài người. Văn hoá được coi như là một văn bản các hệ thống
biểu tượng (Theo định nghĩa văn hóa của L. White[15] “Văn hoá là cơ chế
của các hiện tượng, vật thể, hành động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được
tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu tượng hoặc phụ thuộc vào các biểu tượng
đó” [25]
Mỗi nền văn hóa đều được cấu thành bởi một tập hợp các hệ biểu
tượng. Việc nghiên cứu các biểu tượng là chìa khóa để giải mã đời sống văn
hóa, tinh thần của một cộng đồng. Nói như Jean Chevalier, tác giả cuốn Từ
điển biểu tượng văn hóa thế giới [9], tìm hiểu biểu tượng là tìm ra chìa khóa
của những con đường đẹp đẽ…. Vượt qua cái dáng vẻ bên ngoài, ta thấy được
những chân lý, niềm vui, những ý nghĩa ẩn kín và thiêng liêng của mọi điều
trên mặt đất quyến rũ và kinh khủng này.
Ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ văn học là kho tàng bảo lưu những giá
trị văn hóa của một dân tộc. Do đó, nghiên cứu về biểu tượng, không thể
59
không xem xét trong mối quan hệ với ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thơ ca.
Giá trị thực sự của biểu tượng được xác lập không chỉ ở bình diện văn hóa nói
chung trong đời sống cộng đồng mà còn định hình và biến đổi trong sự điều
chỉnh, tiếp nhận của mỗi cá nhân, mỗi chủ thể.
Biểu tượng (symbol) là một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử
dụng với những nội hàm khác nhau. Khởi nguyên, biểu tượng là một vật được
cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi người giữ một phần,
chủ và khách, người cho vay và kẻ đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp
chia tay nhau lâu dài… Sau này, ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối
thân tình xưa, món nợ cũ, tình bạn ngày trước. Biểu tượng chia ra và lại kết
lại với nhau như vậy nên nó chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Điều này
cũng có nghĩa mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ ; ý nghĩa của
biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối kết những phần của nó
đã bị vỡ ra.
Sau này, khi khoa học về biểu tượng hình thành và phát triển, có rất nhiều
quan điểm khác nhau đưa ra nhằm lí giải về ý nghĩa của biểu tượng và vai trò
của nó trong đời sống con người. Dưới đây xin được dẫn một vài nhận định:
Theo phân tâm học Freud, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng
gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là
mối liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời
nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng… Nhà nghiên cứu C.G. Jung thì cho rằng:
Biểu tượng là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta
mơ hồ nghi hoặc của tâm linh.
Các ý kiến trên đều ít nhiều có sự khác nhau song về cơ bản đều chỉ ra
rằng biểu tượng có hai mặt là cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Từ đó,
một cách chung nhất, theo chúng tôi, có thể hiểu: biểu tượng là khái niệm
dùng để chỉ một thực thể bao gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện
60