1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

3 Khát quát về văn học Tày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 111 trang )


Ðức, Vượt biển... Đây là những truyện được mọi người biết đến và yêu thích

nhiều, có ý nghĩa khá quan trọng trong nền văn học dân gian truyền thống và

trong đời sống tinh thần của đồng bào. Những tác phẩm này ban đầu đều được

lưu truyền bằng phương thức truyền miệng do các nghệ nhân kể trong những

dịp lễ, tết hay vào lúc nông nhàn. Có thể cốt truyện nguyên sơ còn rất lỏng

lẻo, cùng một tên truyện nhưng lại có nhiều chi tiết khác nhau, sau này được

các nho sĩ chép lại, sắp xếp lại cho hoàn chỉnh hơn và tồn tại cho đến ngày

nay. Đề tài truyện thơ Tày thường chọn đó là: tình yêu nam nữ, thân phận

người phụ nữ và số phận người nghèo khổ. Chủ đề của truyện đều tập trung

vào chủ đề quyền sống tự do của con người trong xã hội cũ, lên án chế độ ép

gả trong hôn nhân, thể hiện quyền khao khát thay đổi số phận của người

nghèo khổ.

Về thể loại dân ca, có thể nói dân ca gắn liền trong đời sống sinh

hoạt, tín ngưỡng của người Tày nhiều và quan trọng nhất so với các thể

loại văn học khác. Dân ca Tày có ba dòng đặc trưng: dân ca giao duyên,

dân ca nghi lễ và dân ca tín ngưỡng. Dân ca giao duyên phong phú về thể

loại như phong slư, lượn, phuối pác (hát đối đáp)…thường được các đôi

trai gái sử dụng khi tìm hiểu nhau, do đó làn điệu thường ngân nga nhấn

nhá vang xa trong không gian thể hiện tâm trạng, tình cảm, nỗi nhớ nhung.

Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc sắc của trai gái

Tày. Bức thư này viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải sa tanh đỏ. Phong

slư nói về cung bậc tình cảm của những người đang yêu. Khi là tiếng nói

thủ thỉ tâm tình. Lúc hóa thành dòng thác nhớ nhung tha thiết. Tình yêu

nam, nữ thể hiện trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách, trắc trở,

tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong slư thường buồn da diết. Tuy

nhiên nó không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ

lãng mạn, nhân văn.

17



Hãy tu thân chờ nhau bên ấy

Dẫu là không lấy được cũng cam

Yêu nhau để khắp mường được thấy

Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau

Tới trăm năm khi về âm phủ

Ta rủ nhau về chốn mường hơn

Lượn là một bộ phận thuộc loại hình nghệ thuật dân ca sinh hoạt của

người Tày. Lượn có nhiều tiểu loại, ngoài hai loại cơ bản là lượn cọi và lượn

slương, người Tày còn có lượn Then, lượn nàng Hai, lượn khắp,… Trong cái

nhìn đối sánh với văn hóa dân tộc Kinh, lượn là lối hát giao duyên có thể

tương tự như lối hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa

tha thiết, lay động lòng người, gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Có thể

nói lượn đã trở thành một thực thể trong đời sống tinh thần, một thành phần

có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu bộc lộ tình cảm

của những người dân Tày yêu thích ca hát. Thông qua lượn mà tiếng hát, lời

ca ngân lên mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần

không thể thiếu được trong đời sống tinh thần người Tày.

Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam nữ thanh

niên Tày, Nùng thường dùng hàng ngày. Đây là lối nói tự do, dịch nôm là

“nói chuỗi” thường được diễn ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ

hội… Đó cũng là một hình thức thể hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi

trêu ghẹo tình tứ thể hiện những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời

gian gọt giũa những lời phuối pác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và

mềm mại một chất thơ lãng mạn. Phuối pác là nơi thể hiện tình yêu trai gái.

Nội dung chính của các bài hát này là lòng yêu lao động, tình yêu trai gái, tùy

tài năng và cảm xúc của người hát mà làn điệu bài bản các thể hát đó được

biến hoá, sáng tạo không ngừng. Phuối pác là thể dân ca hát đối đáp, có làn

18



điệu nhưng không ngân nga như lượn, thường được dùng nhiều nhất trong hai

trường hợp: khi mới gặp nhau và lúc tạm biệt nhau:

- Chàng ơi, nón cọ hay nón bạc

Nón chàng đội hai người được không

Đội được em xin đi cùng đường

- Chớ lừa nhau đặt lờ trên cây

Biết bao giờ mới được gặp cá

Dân ca nghi lễ, nổi bật nhất là hình thức quan làng trong các đám cưới.

Các quan làng (đại diện nhà trai) thường hát đối đáp với các pả mẻ (đại diện cho

nhà gái) phục vụ cho tiến trình nghi thức của một đám cưới. Dân ca tín ngưỡng

là lời xướng, giọng ca của những người hành nghề mang tính tâm linh…

Trên đây chúng tôi điểm lại những thể loại chính trong kho tàng văn

học dân gian của người Tày. Sự đa dạng về thể loại, đề tài và nội dung phản

ánh thể hiện đời sống tinh thần phong phú của đồng bào. Đây cũng là một

trong những giá trị văn hóa dân tộc cần được giữ gìn và phát huy qua các thế

hệ. Nó sẽ là bản sắc dân tộc, là nền tảng văn hóa, văn học vững chãi cho các

nhà văn nhà thơ sau này kế thừa và tiếp nối.

1.3.2 Văn học viết Tày

Do hệ thống chữ Nôm Tày xuất hiện khá sớm so với các dân tộc khác

(thế kỷ XV) nên nền văn học viết của người Tày đã sớm phát triển. Mỗi giai

đoạn đều có những thành tựu chung, đều ghi dấu ấn độc đáo của từng gương

mặt như các tác giả thời trung đại Lê Thế Khanh (1389-1460), Nông Quỳnh

Vân (1565-1640), Bế Hữu Cung (1757-1820), Hoàng Ích Viêng (1890-1945)

đến các tác giả thời hiện đại như Hoàng Văn Thụ (1906-1944), Nông Quốc

Chấn (1923-2002), Nông Minh Châu (1924-1979), Triều Ân, Vi Thị Kim

Bình, Ma Trường Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Đoàn

Ngọc Minh, Triệu Thị Mai, Đoàn Lư, Dương Thuấn, Vi Thùy Linh…

19



Thời kì trước Cách mạng tháng Tám 1945, văn học dân tộc thiểu số nói

chung cũng như văn học Tày nói riêng thường tồn tại dưới loại hình văn học

dân gian. Phải đến sau Cách mạng, văn học các dân tộc thiểu số nói chung

mới bắt đầu phát triển với dấu ấn của cá nhân. Đội ngũ sáng tác văn học

người Tày được hình thành và phát triển trong số đó có một số tác giả đã trở

thành đại thụ hay hiện tượng trong nền văn học Việt Nam. Đầu tiên phải kể

đến lớp nhà văn nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, là những

người đặt nền móng đầu tiên cho văn học Tày hiện đại như: Nông Quốc Chấn,

Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Hoàng Triều Ân.

Trước hết về tác giả Nông Quốc Chấn – người anh cả của nền thơ ca

dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Tày nói riêng. Ông được xem là

người dân tộc thiểu số đầu tiên: “mang hơi thở của núi rừng Việt Bắc vào thi

ca” là “cánh chim đầu đàn của những người làm văn học cách mạng của các

dân tộc thiểu số” (Tô Hoài). Đọc Nông Quốc Chấn ta thấy toát lên chất trữ

tình đằm thắm, ông viết mộc mạc, giản dị vừa sâu sắc, nhẹ nhàng vừa sôi nổi

như giáo sư Vũ Khiên đã từng nhận xét: “Tâm hồn anh từ nhỏ được nuôi

dưỡng từ chất thơ của tình người, trong giọng hát lượn then, trong âm thanh

đàn tính... thơ anh nhiều lúc hoang sơ như cây rừng, gập ghềnh như sườn

núi”. Bên cạnh việc giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, Nông Quốc Chấn

luôn tìm tòi và học theo những đổi mới thơ miền xuôi. Ông say mê nghiên

cứu, luôn trăn trở với vấn đề sáng tác của văn học dân tộc thiểu số. Từ

những năm 60 trở đi, thơ Nông Quốc Chấn có nhiều thay đổi nhưng điều

quan trọng là ông ý thức rất rõ rằng bản sắc dân tộc không mâu thuẫn với

việc mở rộng đề tài, chủ đề, thủ pháp diễn đạt... Và thực sự Nông Quốc

Chấn không chỉ là nhà thơ của đồng bào Tày, Việt Bắc mà thơ ông còn được

cả nước đã biết đến và yêu mến.



20



Còn nhà văn nhà thơ Nông Viết Toại thì ngay từ những năm đầu kháng

chiến chống Pháp đã thổi bùng lòng yêu nước vào trong thơ văn mình qua

một số bài ca Cách mạng như: Nhớ chiến khu, Nhớ đàn chim Việt. Ðọc những

sáng tác của Nông Viết Toại càng thêm yêu mến làng bản, núi rừng quê

hương Việt Bắc với những hình ảnh rừng núi bạt ngàn nắng gió, những mái

nhà sàn xinh xắn, những nét sinh hoạt đầm ấm của những nguời dân miền núi

trong các thôn bản vùng núi cao.

Nói đến văn học Tày còn không thể không kể đến nhà văn nhà thơ

Nông Minh Châu, người có công đầu trong việc đặt nền móng cho văn xuôi

các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại. Những sáng tác của Nông

Minh Châu thường mang nội dung tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê

hương miền núi với những cảnh vật đẹp đẽ, nên thơ và những con nguời miền

núi thẳng thắn thật thà, chân chất nhưng rất giàu tình cảm… Sáng tác của Nhà

văn Nông Minh Châu không nhiều. Toàn bộ tác phẩm đã được xuất bản của

ông chỉ gồm một tập thơ bằng tiếng Kinh: Tung còn và Suối đàn (in chung

với Triều Ân,1963), tiểu thuyết Muối lên rừng (1964), tập truyện và ký Tiếng

chim gô (1979), trường ca tiếng Tày Cưa khửn đông (1967), Tuyển tập Nông

Minh Châu (2003), Thơ Nông Minh Châu tuyển chọn (2005). Nhưng, theo

đánh giá của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam thì Nông

Minh Châu là một trong những người viết trường ca sớm nhất trong lịch sử

văn học ông còn là một trong những người đặt viên gạch đầu tiên cho văn

xuôi dân tộc thiểu số.

Văn xuôi thời kỳ Cách mạng của văn học Tày còn ghi dấu cây đại thụ

Hoàng Triều Ân. Ông tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1943 và là

người lãnh đạo Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng trong nhiều năm. Thông

thường một người trời phú cho giỏi làm thơ nhưng khó thành công trong sáng

tác truyện nhưng Hoàng Triều Ân lại thành công cả trong hai lĩnh vực. Vào

21



đầu những năm 60 của thế kỷ XX ông đã đoạt nhiều giải thưởng thơ đến nay

ông đã cho xuất bản 8 tập thơ nhưng đánh giá khách quan thì có thể khẳng

định truyện ông viết hay hơn thơ cho dù truyện của ông ít đoạt giải hơn thơ.

Nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số rất thành công nhưng đối với văn xuôi thì số

tác giả thành danh không có nhiều Triều Ân là một trong số người hiếm hoi

đó. Nhà văn Triều Ân đã xuất bản 5 tập truyện ngắn và 3 cuốn tiểu thuyết.

Một đời văn, một đời người làm được như vậy là đã nhiều. Nhưng giờ sự sáng

tạo của ông vẫn sung sức như ngày nào, bút lực vẫn dồi dào dù tuổi 80 đang

đến gần. Lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu của Hoàng Triều Ân để lại nhiều dấu

ấn trong sự nghiệp của đời ông, đó là những đóng góp đáng kể cho dân tộc và

cho xã hội. Những tác phẩm điển hình như: Ca dao Tày, Nùng; Tục cưới xin

của người Tày; Chữ Nôm Tày và truyện thơ... đã nói lên điều đó. Thông qua

sưu tầm những vấn đề thuộc về văn nghệ dân gian nhà văn Hoàng Triều Ân

đã đóng góp công sức của mình vào việc bảo tồn gìn giữ, phát huy những giá

trị nền tảng văn hóa truyền thống.

Ðội ngũ sáng tác văn học của dân tộc Tày trong thời kì kháng chiến

chống Pháp chủ yếu là những tác giả được tắm mình trong nguồn mạch văn

hóa, văn học dân gian của dân tộc họ và sự nghiệp sáng tác của họ luôn gắn

liền với sự phát triển của dân tộc, của quê hương miền núi nơi mình sinh ra.

Vì thế những sáng tác của họ ở giai đoạn này chủ yếu là lên án tội ác của bọn

thực dân, phong kiến ở miền núi, ngợi ca con người miền núi trong kháng

chiến, trong công cuộc xây dựng quê hương, đất nước - sau khi sạch bóng

quân thù. Tuy nhiên, thời kì này đội ngũ sáng tác văn học Tày vẫn còn mỏng,

sáng tác còn mang tính tự phát và ảnh hưởng nhiều yếu tố dân gian… Nhưng

với những tác phẩm cụ thể của mình, đội ngũ sáng tác văn học dân tộc Tày

cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu đời sống văn hoá văn học của nhân



22



dân các dân tộc mình trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng

hoà bình trên quê hương miền núi cao yêu dấu của họ.

Sang đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Hội nghị sáng tác văn học

các dân tộc thiểu số ở miền Bắc lần thứ nhất họp tại Thái Nguyên (1964) đã

có ảnh hưởng rất lớn đối với văn học Tày. Hội nghị này đề cập đến những vấn

đề sáng tác văn học của các dân tộc thiểu số như vấn đề: cuộc sống mới, con

người miền núi mới; vấn đề các thể loại văn học phát triển như thế nào? vấn

đề song ngữ trong sáng tác văn học; vấn đề xây dựng đội ngũ nhà văn là con

em các dân tộc thiểu số ra sao thực sự được quan tâm và giải quyết. Văn học

Tày đã được hoà chung vào trong không khí ấy, những người sáng tác văn

học đã thực sự có ý thức về công việc sáng tạo văn chương của mình. Gương

mặt thơ văn Tày tiêu biểu thời kì này phải kể đến là Y Phương (sinh năm

1948) với các tác phẩm: Người núi hoa (kịch nói, 1982), Tiếng hát tháng

giêng (thơ, 1986), Lửa hồng một góc trời (thơ in chung, 1987), Lời chúc (thơ,

1991), Đàn then (thơ, 1996), Chín tháng (trường ca, 2000), Thơ Y Phương

(tuyển tập thơ, 2002). Thơ Y Phương có sự từng trải trong cuộc sống, với

cách diễn tả hồn nhiên mà sâu lắng, các đề tài rộng mở, “có đồng bằng và

biển, có phố phường sầm uất thị thành” nhưng đậm nhất, nhiều nhất và hay

nhất vẫn là hình ảnh cuộc chiến đấu anh dũng và cuộc sống vùng cao bình dị.

Y Phương của những ngày đầu làm thơ mộc mạc và đậm chất miền núi hồn

nhiên. Những giai đoạn sau này, thơ Y Phương ngày càng chứng tỏ sự điêu

luyện trong bút pháp, tầm triết luận sâu sắc trong nhận thức, trong từng vấn đề

thể hiện. Cái chất miền núi, chất Tày không mất đi mà kết hợp hài hòa với lối

tư duy hiện đại.

Nhìn chung nội dung thơ văn giai đoạn kháng chiến chống Mỹ của dân

tộc Tày chủ yếu phản ánh về công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên quê

hương, ca ngợi sự đổi mới trong đời sống văn hoá xã hội của quê hương đất

23



nước. Văn học đã thực sự là tiếng nói của đông đảo đồng bào Tày. Ðặc biệt giai

đoạn này đã có nhiều tác giả chú trọng việc sáng tác văn học bằng song ngữ.

Công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc của đất nước ta từ năm 1986 đã

tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,

văn hoá, xã hội… trong đó có văn học nghệ thuật và văn học Tày cũng nằm

trong quy luật phát triển đó. Lớp nhà văn thứ ba của văn học Tày được hình

thành, đó là những tác giả mà tên tuổi của họ được gắn liền với những tác

phẩm văn học viết về thiên nhiên, cuộc sống, con nguời trên xứ Tày. Trong

những năm này văn học Tày dường như trẻ lại, ngay cả đối với các tác giả

thời kỳ trước cũng có sự thay đổi trong sáng tác, những tác phẩm của họ đã

mang những âm huởng mới, náo nức cảm hứng khám phá về con người, về

cuộc sống, về quê hương miền núi với những điều lớn lao và cũng rất đời

thường. Còn đối với các nhà thơ trẻ thuộc thế hệ trưởng thành trong giai đoạn

lịch sử này - thì sự đổi mới tư duy trong sáng tác văn học cũng thể hiện một

cách rõ rệt. Họ có nhiều sự sáng tạo độc đáo, cách viết của họ hiện đại hơn,

diễn đạt một cách mới lạ hơn tuy nhiên trong tâm hồn họ vẫn thấm đẫm tính

dân tộc và bản sắc dân tộc vẫn được thể hiện một cách sinh động trong từng

tác phẩm. Có thể điểm qua một số gương mặt thơ tiêu biểu của văn học Bắc

Kạn thời kì này là hai tác giả tiêu biểu nhất đó là Dương Thuấn và Vi Thùy

Linh. Vì đối tượng của luận văn chính là thơ ca Dương Thuấn nên chúng tôi

sẽ trình bày cụ thể, chi tiết ở phần sau luận văn. Về tác giả Vi Thùy Linh, Vi

Thùy Linh được xếp vào thế hệ nhà thơ trẻ nhất của thơ văn dân tộc miền núi

tuy nhiên nội dung những sáng tác của cô chủ yếu đào sâu về cảm giác, khát

vọng và ám ảnnh của người phụ nữ trong thế giới tình yêu, nhục cảm. Ít tìm

thấy đề tài, đối tượng hay chủ đề trong thơ Vi Thùy Linh viết về cuộc sống,

thiên nhiên miền núi nhưng chất miền núi của Vi Thùy Linh vẫn được thể

hiện qua quan niệm, cách sống nhiệt thành, hết mình, thẳng thắn - cách

sống, cách ứng xử của con người miền núi đúng như cô đã từng tâm sự:

24



“Trước tôi hăm hở đơn thuần, giống như một con ngựa liều lĩnh mơ mộng

đang phi trên những cánh đồng bao la, có thể phía trước tôi là bẫy, chông,

vực thẳm… nhưng tôi vẫn lao đi. Có những lúc đêm tối mịt mù, có khi là

trăng sao. Để giờ tôi biết thận trọng hơn, dù thế nào con ngựa ấy luôn đầy

sức sống. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn hơi thơ có sức sống và lửa ấy”[52]. Chính

bản tính phóng khoáng, sôi nổi, mạnh mẽ của núi rừng đã phần nào tạo nên

một Vi Thùy Linh với Khát (1999), Linh (2000), Đồng tử (2006) với tư thế

đúng như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có nói về cô - “nữ sĩ trẻ tuổi trên con

ngựa chữ dậy thì, đã độc mã phi thẳng vào rừng rậm thi ca”.

Qua mỗi giai đoạn khác nhau, các nhà văn nhà thơ dân tộc Tày cùng

kế thừa, tiếp thu mạch nguồn văn hóa dân tộc nhưng lại khẳng định theo

một cách riêng. Sự đa dạng, phong phú trên đã tạo nên bộ mặt văn học sinh

động của văn học Tày nói riêng và văn học dân tộc thiểu số nói chung.

1.4



Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày



1.4.1 Vài nét về nhà thơ Dương Thuấn

Dương Thuấn là người Tày, ông sinh ngày 7 tháng 7 năm 1959 tại bản

Hon, xã Bành Trạch, huyện Ba Bể cùng với nhiều nhà thơ dân tộc thế hệ thứ

ba, Dương Thuấn đã tiếp nối các thế hệ cha anh đi trước và hình thành cho

mình một phong cách tài hoa, độc đáo. Những năm cuối thập kỉ 70 của thế kỉ

trước, khi còn ngồi trên giảng đường trường Đại học Sư phạm Việt Bắc,

Dương Thuấn đã tham gia viết văn. Truyện ngắn đầu tay của ông với tựa đề:

Mùa hoa mạ thứ 3 - xuất bản năm 1981 đã đưa ông đến với con đường văn

chương. 10 năm sau, tập thơ đầu tay Cưỡi ngựa đi săn viết cho thiếu nhi năm

1991 đã được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải A. Từ đó đến nay ông đã lần

lượt cho ra đời 13 tập thơ: Đi tìm bóng núi (1993), Đi ngược mặt trời (1995),

Bà lão và chích chòe (1997), Hát với sông Năng (2001), Đêm bên sông yên

lặng (2004), Thơ với tuổi thơ (2005), Chia trứng công (2006), Lính Trường

Sa thích đùa (2006), Soi bóng vào tôi (2009), trường ca Mười bảy khúc đảo

25



ca (2002) và các tập thơ tiếng Tày: Lục pjạ hết lúa (1995), Slíp nhỉ tua khoăn

(2002)… Hai lần liên tiếp ông được nhận giải B của Hội Văn nghệ dân tộc

thiểu số năm 2000 và 2006 với tập thơ Mười bảy khúc đảo ca và Chia trứng

công. Không chỉ có thế, anh còn được Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt

Nam trao giải B cho tập thơ Đêm bên dòng sông yên lặng vào năm 2005.

Ngoài ra, ông còn được tặng 12 giải thưởng khác của các tổ chức chính trị, xã

hội, các cuộc thi thơ do các báo và nhà xuất bản Trung ương tổ chức. Đặc

biệt, trong những tập thơ của ông đã xuất bản, trong những tập thơ anh đã

xuất bản, có những bài thơ đã được nhạc sĩ An Thuyên và nhạc sĩ Cầm

Phương phổ nhạc như Khúc ca cao nguyên, Đi tìm bóng núi, Tình ca bên

suối, Lá trầu… Ngoài sáng tác thơ, Dương Thuấn còn nghiên cứu văn hóa.

Ông vừa cổ súy việc bảo tồn và phát triển trong xu hướng hội nhập vừa trăn

trở đối với từng bước đi của văn học dân tộc thiểu số.

Là người con của xứ Tày – Bắc Kạn, những vần thơ của Dương Thuấn

luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời

sống sinh hoạt đến tâm hồn nếp suy nghĩ của con người qua giọng thơ bình dị,

đầy sức lôi cuốn đặc biệt ở cách sử dụng ngôn từ ví von, so sánh đầy tính trực

cảm và rất giàu biểu tượng – nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc thiểu

số. Dương Thuấn bộc bạch: “Tôi làm thơ bằng cả hai thứ tiếng: Tày và Kinh.

Khi viết tiếng Tày, tôi không nghĩ chỉ viết cho người Tày đọc, hoặc khi viết

bằng tiếng Kinh, tôi cũng không nghĩ chỉ viết cho người Kinh đọc. Tôi chỉ

nghĩ đến đối tượng đọc của tôi là con người. Theo tôi nhà thơ phải đứng trên

sự vật, trên cả thời đại mình đại để đem tiếng nói yêu thương tâm huyết nhất

của mình đến với mọi người. Tôi luôn luôn muốn khẳng định với mọi người

rằng: Tôi là như thế! Dân tộc tôi là như thế![26]

Trong văn học Việt Nam hiện đại, mảng sáng tác về miền núi chiếm vị

trí quan trọng. Những nhà văn, nhà thơ vùng cao đã góp phần không nhỏ

trong việc mang lại những âm điệu mới cho nền văn học dân tộc. Thơ ca Việt

26



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

×