1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

2 Sự gắn bó, tự hào về quê hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 111 trang )


làng, yêu gió, yêu mây, yêu cả từng con trâu, con ngựa, mỗi loài hoa, cây cỏ

thì số lượng bài thơ về quê hương mới phong phú, đồ sộ như thế (800 bài).

Dương Thuấn hát những bài ca về lao động, về vẻ đẹp thiên nhiên, con người,

phong tục hội hè, về tình yêu trai gái, tình yêu làng bản. Quê hương đi vào

trong thơ Dương Thuấn chân thực pha sức gợi cảm. Nó tạo nên sức sống, nét

hấp dẫn rất riêng không thể trộn lẫn.

2.2.1 Tình yêu thiên nhiên

Thiên nhiên là mảng đề tài quen thuộc trong thơ Dương Thuấn. Bằng

hai mạch cảm xúc: cảm xúc của một con người đang ở miền núi gắn bó, hòa

nhập với thiên nhiên và cảm xúc của một con người xa quê hương với bao kỉ

niệm sâu lắng, tha thiết, nhà thơ đã vẽ lại hình ảnh thiên luôn gắn với cuộc

sống của con người Việt Bắc vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Thiên nhiên Việt Bắc

đã từng xuất hiện nhiều trong thơ của nhiều tác giả đi trước như: Hồ Chí

Minh, Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Y Phương... khi bước vào

thơ Dương Thuấn, cảnh rừng Việt Bắc hiện lên vừa thơ mộng trữ tình nhưng

cũng không kém phần hoang sơ, hùng vĩ:

Quê tôi núi ngàn cao vời và lớn rộng

Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung

(Quê tôi núi ngàn)

Chỉ với hai câu thơ mà tác giả đã giới thiệu cho bạn đọc những nét đặc

trưng đầy thơ mộng về một miền núi ngàn rộng lớn, cao vời vợi, sớm chiều

sương phủ. Đặc biệt vào buổi chiều khi hoàng hồn xuống, hình ảnh những

ngọn núi, hang đá hiện lên thật hùng vĩ, trùng điệp:

Hoàng hôn xuống

Ngắm ngọn Bút Sơn

Ngắm núi Voi oai hùng xung trận

(Chiều bản Hon)

32



Dương Thuấn có khi đóng vai người chủ hiếu khách, ông làm thơ như

để cầm tay, mời gọi bạn đọc về thăm thú, thưởng ngoạn cảnh đẹp quê hương

mình. Nơi đây hút hồn người, níu bước chân du khách và ai đến đây cũng có

thể tức cảnh mà làm thơ, trở thành thi sĩ trong phút chốc:

Có thể anh chưa bao giờ làm thi sĩ

Đến Ba Bể cảnh thần tiên đẹp quá

Anh sẽ bồi hồi và tự làm thơ

(Mời anh về Ba Bể)

Lại có lúc nhà thơ hóa mình thành một du khách, bị vẻ đẹp rừng núi

làm say đắm. Hình ảnh “gió thổi lá vàng trong nắng thu rơi rơi”, “hoa dại nở

khắp triền đồi thắm đỏ” rồi hình ảnh của “trăng bạc thung thăng chạy trên

ngọn cỏ”... tạo nên bức tranh thiên thiên đầy thơ mộng, lãng mạn, quyến

luyến hồn người. Chính nhà thơ, người đã quá đỗi quen thuộc với những hình

ảnh thiên nhiên đó cũng không giấu khỏi sự ngỡ ngàng, vui sướng mà phải

thốt lên: “ôi nắng vàng như mật”, “kìa thảo nguyên đẹp thế”. Nếu ai đã sống

hoặc đến du ngoạn cảnh đẹp Việt Bắc chắc chắn sẽ đồng ý rằng, thiên nhiên

núi rừng nơi đây đẹp nhất là vào mùa xuân. Vì thế thơ tả cảnh đẹp mùa xuân

Việt Bắc cũng nhiều hơn trong sáng tác của các thi sĩ. Mùa xuân trên quê

hương Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng thường được tác giả miêu tả với những

hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là hình ảnh hoa lá tựa như tấm vải thổ

cẩm trải qua mặt bàn rực rỡ màu sắc trong thơ Nông Quốc Chấn:

Mùa xuân mới về với chúng ta

Lá hoa nhuộm đồi đèo rừng núi

Như thổ cẩm trải qua mặt bàn

Hay mùa xuân của hoa mơ trắng xuất hiện trong bức tranh tứ bình của

nhà thơ Tố Hữu:



33



Mùa xuân hoa nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

(Việt Bắc)

Nhưng có lẽ viết hay, viết nhiều về mùa xuân Việt Bắc nhất phải kể đến

Dương Thuấn. Mùa xuân trên rẻo cao thường được tác giả miêu tả với những

hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là những rừng đào rực hồng, rừng ban,

rừng mơ trắng muốt cùng đua nhau khoe sắc, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ cho núi

rừng: “Hoa đào nở thắm rồi/ Rừng hoa ban nở trắng/ Dậy ra núi cùng chơi/

Mùa xuân đã đến rồi” (Bài ca mùa xuân) hay: “Theo mùa xuân lên núi/ Bạn

sẽ gặp hoa mơ/ Bông nở thành chiếc khuy/ Cài áo mây trắng xóa (Theo mùa

xuân đi).

So với mùa xuân, ba mùa (hạ, thu, đông) xuất hiện ít hơn trong thơ

Dương Thuấn nhưng cách cảm nhận, cách miêu tả mỗi mùa đó với Dương

Thuấn lại có phần lạ hơn so với các thi nhân khác. Cái lạ đó chính là hình ảnh

thiên nhiên miền núi trong mỗi mùa luôn mang đến cho người đọc một sự

khám phá, một niềm bất ngờ thích thú mới. Nếu như mùa hè ở đồng bằng hay

các vùng địa lí khác trên đất nước ta là mùa của nắng thì mùa hè ở vùng cao lại

là mùa lũ tràn về: Tháng sáu mưa ngàn/Bất ngờ cơn suối lũ (Tháng sáu). Mùa

thu trong thơ từ xưa nay thường mang đến một nỗi buồn man mác, dịu nhẹ

trong lòng người nhưng trong thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn thì mùa

thu lại đem đến một sự rộn ràng náo nức. Đây là đàn cá võng tung tăng bơi lội

giữa dòng nước trong xanh: Sáng sớm lạnh se se/ Sông xanh như lá nghệ/ Cá

võng đi từng đàn/ Xuôi theo dòng về bể (Tháng sáu). Và hình ảnh mùa đông

vui tươi trong thơ Dương Thuấn khác hẳn với mùa đông lạnh lẽo, đìu hiu, cô

đơn trong thơ ca cổ xưa. Đó là một mùa đông vui như đi trẩy hội, một mùa

đang được mong đợi: Mùa đông ra đi từ năm ngoái/ Đến hẹn năm nay lại trở

về/ Cầy hương vui hội trên ngọn móc/ Lợn lòi dúi mõm ủi dọc khe (Mùa đông).

34



Đọc thơ Dương Thuấn, miền quê Bắc Kạn hiện lên với nhiều địa danh,

danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: hồ Ba Bề, động Puông, rừng Phja Bjooc,

sông Năng, nước Bạc, thác Đầu Đẳng, Phủ Thông, đèo Giàng, đèo Gió...

nhưng có lẽ địa danh xuất hiện nhiều và ám ảnh nhà thơ nhất là hồ Ba Bể và

sông Năng. Hai cảm xúc viết về thiên nhiên của tác giả hòa quyện vào nhau

tan vào cảnh hồ Ba Bể và sông Năng để rồi tạo ra một cõi mơ huyền ảo, bồng

bềnh gió mây. Dương Thuấn đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại để

diễn tả cảm xúc thăng hoa khi viết về hồ Ba Bể:

Đứng ở sườn non đưa tay ra bắt cá

Trên thuyền hái được củi đem về

Còn với sông Năng, con sông ấy là hình ảnh đầu tiên hiện lên khi nhà

thơ nhớ về quê hương. Trong những đêm trằn trọc không ngủ, nhà thơ vẫn mơ

tiếng sóng của dòng sông, lúc nào ông cũng muốn quay trở về để được “hát

với sông Năng”.

Bây giờ mỗi đêm nằm lại nghe tiếng sóng

Tiếng thác reo chui vào trong chăn thành giấc mơ

Sự ám ảnh về dòng sông quê hương theo tác giả đi bất cứ nơi đâu, để

đến đâu nhà thơ cũng hướng về dòng sông quê hương, cũng nhớ về núi Chẻ

Dả, cũng muốn quay về hồ Ba Bể.

Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đẹp, thơ mộng là vậy nhưng có khi thiên

nhiên ấy cũng hiện lên thật sự dữ dội. Lũ rừng đã là một “đặc sản” của vùng

cao. Nó cuốn đi tất cả những rác rưởi cuộc đời, gây bao tác hại cho đồng bào:

Rác rưởi/ Cành khô/ Cuốn đi lớp lớp/ Nước cuồn cuộn trôi/ Gồng lưng đạp

vỡ bờ/ (...)/ Hỏi cơn lũ nào hơn phần dữ dội (Cơn lũ rừng – cơn lũ thời gian).

Nhà thơ miêu tả thiên nhiên hiểm trở để khắc họa nét gai góc của cảnh rừng

Việt Bắc mặt khác còn muốn chứng tỏ sức mạnh, nghị lực sống của con người

nơi đây trước sức hủy hoại ghê gớm của thiên tai.

35



Mỗi nhà thơ đều có một vùng quê riêng, gắn bó với bao kỉ niệm cuộc

đời. Quê hương Dương Thuấn là vùng núi cao Việt Bắc hùng vĩ chính vì vậy

những vần thơ của ông về quê hương bao giờ cũng bay bổng, phóng khoáng

như chính tậm hồn của người dân miền núi:

Tự gieo mình rơi xuống giữa đại ngàn

(…)Hóa thành thác bọt tung trắng xóa

(Thác Đầu Đẳng)

Tình yêu với thiên nhiên của nhà thơ không chỉ thể hiện ở hành động

chiêm ngưỡng, ngắm nhìn và mong muốn quảng bá hình ảnh quê hương đến

độc giả mà còn thể hiện ở mối quan hệ hòa quyện, gắn bó giữa thiên nhiên và

con người.

Trên khóm mai tiếng gà rừng thôi gáy

Người dắt trâu lộc cộc bước ra đường

Tiếng cối giã lên mặt sông rộn rịp

Mịt mù trôi đi dòng nước khói sương…

(Buổi sớm bản Hon)

Vào buổi sớm, bức tranh thiên nhiên ở bản Hon hiện với âm thanh

tiếng gà rừng, tiếng giã gạo, tiếng vó trâu lộc cộc cùng hình ảnh “dòng nước

khói sương” và hiện lên trên bức tranh ấy là hình ảnh người lao động. Một

ngày mới bắt đầu với cảnh vật thanh bình và con người lao động chăm chỉ,

mộc mạc. Để ý ta thấy, tất cả các địa danh nổi tiếng Bắc Kạn đều xuất hiện

trong thơ Dương Thuấn, đặt bên cạnh những địa danh đó là bản Hon bé nhỏ,

đơn sơ. Phải chăng bản Hon là một không gian thu nhỏ của các không gian

văn hóa nổi tiếng của Bắc Kạn? Miêu tả bản Hon, nhà thơ khắc họa đó là một

không gian động, có thiên nhiên và con người quấn quyện trong sự tuần hoàn,

hài hòa với nhau.



36



Những ai sinh sống ở rừng núi hay biển đảo đều thấm thía thế nào là

rừng thiêng nước độc, mưa rừng bão bể nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy

một câu thơ than thở, chê trách thiên nhiên núi rừng trong thơ Dương Thuấn.

Đó không phải do thơ Dương Thuấn phiến diện chỉ có cảm hứng ca ngợi

không mà bởi những khó khăn, thử thách do thiên nhiên gây ra đã được đồng

bào nơi đây vượt qua. Hay nói cách khác, thiên nhiên hòa quyện cùng đời

sống sinh hoạt của con người còn là cách con người nơi đây chinh phục, thuần

hóa thiên nhiên. Hãy nghe người con của núi rừng tự hào khi mang trong

mình những sức mạnh oai hùng của đại ngàn và một tâm hồn phóng khoáng

của gió trời:

Ta có con mắt của con nai bên suối

Ta có con mắt của con báo trong lồng

Ta đi bộ từ núi xuống đồng bằng

Ta ghé tai hổ nói:

- Ta là họ Dương

Hổ liền cõng ta vượt núi

Giữa đường gặp trăng sao

Ta ngồi cùng trăng sao uống rượu…

Yêu thiên nhiên, say mê cảnh đẹp quê hương khiến thơ Dương Thuấn

dày đặc những hình ảnh núi rừng, cây cỏ, sông núi xứ Tày. Đặc biệt có những

hình ảnh thiên nhiên xuất hiện với tần suất cao và trở thành biểu tượng văn

hóa trong thơ Dương Thuấn: núi 126 bài/800 bài, sông suối 165 bài/800 bài,

trăng 60 bài/800 bài. Bộ ba này theo nghĩa thực thì đó là biểu trưng quen thuộc,

gắn bó với cuộc sống con người miền núi. Như vậy ở tầng nghĩa thứ nhất, bộ

ba hình ảnh thể hiện sự giao hòa gắn kết giữa cuộc sống con người với thiên

nhiên xung quanh. Nhưng ở tầng nghĩa thứ hai - giá trị biểu tượng của những

hình ảnh đó lại tượng trưng cho vẻ đẹp con người và cho người mẹ lớn - quê

37



hương. Chúng tôi sẽ trình bày rõ ràng, cụ thể hơn giá trị tượng trưng của các

biểu tượng văn hóa này trong thơ Dương Thuấn ở chương 3 của luận văn.

Sự gắn bó, tự hào về quê hương của Dương Thuấn không chỉ bó hẹp

trong bản làng xứ Tày núi chung mà còn được ông mở rộng đến khắp vùng

miền trên khắp đất nước. Tập thơ Bản Hon và những nơi khác đã tái hiện hình

ảnh về cảnh quan thiên nhiên, các địa danh nơi tác giả đã đi qua với một thái

độ trân trọng, ngợi ca đồng thời thể hiện hoài bão khám phá của một chàng

trai miền núi: muốn đi nhiều, hiểu nhiều để viết nhiều. Đọc thơ Dương Thuấn

ta thấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên thật lung linh, tươi đẹp. Viết về

thiên nhiên Việt Bắc, Dương Thuấn đã thể hiện tình cảm thật sâu đậm của

ông với quê hương mình. Người con của núi rừng Việt Bắc ấy đã viết về Bắc

Kạn với một niềm tự hào, một tình yêu mãnh liệt.

2.2.2 Thái độ với truyền thống dân tộc

Thơ ca chỉ tồn tại và có được thành tựu khi nó thực sự gắn bó với dân

tộc, với truyền thống dân tộc đã sinh ra mình. Nói như cách của nhà thơ dân

tộc Chăm Inrasara là: “Truyền thống không phải là cái gì để chúng ta tìm tới

khai thác trục lợi mà là một sinh thể sống động luôn luôn mời gọi chúng ta

tiếp cận. Chỉ khi nào chúng ta nghiêm túc học hỏi và đối thoại với hàng ngàn

thế hệ con người đã chết, chúng ta mới có đủ lông cánh nói đến sáng tạo.

Chứ không phải thái độ học lỏm qua vài chuyến điền dã hay đọc qua loa các

“công trình khoa học lớt phớt ở vành ngoài”[54]. Trong các nhà thơ dân tộc

Tày, việc kế thừa, tiếp thu và phát huy mạch nguồn văn hóa dân tộc ở mỗi

người một khác, theo một cách riêng. Trước thế hệ nhà thơ Dương Thuấn có

thể kể đến các nhà thơ như: Nông Quốc Chấn, Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương

Quy Nhân... song có thế do hoàn cảnh lịch sử, việc giao lưu, quảng bá văn

hóa còn hạn chế. Đến Dương Thuấn, ông đã tiếp nối và mở mang con đường



38



mà các thế hệ đi trước đã làm, đó là khẳng định mạnh mẽ một đời sống văn

hóa văn nghệ cho dân tộc mình.

Đối với nhà thơ Dương Thuấn, truyền thống dân tộc thể hiện trong thơ

ông được dẫn dắt bởi hai tuyên ngôn: Một là, tuyên ngôn “ta là chàng trai

của núi” – tuyên ngôn về ý thức nguồn gốc. Hai là, “Ta ở đâu bản ta ở đó” tuyên ngôn về ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Phố phường Hà Nội là

nơi Dương Thuấn sống hằng ngày nhưng tâm hồn ông luôn “bay quẩn quanh

trên các ngọn núi cao”[50]. Đối với Dương Thuấn, cảm xúc để bật lên thành

thơ không phải là cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp sự vật hay điều gì lúc

đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm tận tiềm thức của tâm hồn đã có sẵn. Tình

yêu quê hương và những kỉ niệm, cũng như kiến thức về văn hóa, một vùng

quê phong cảnh đẹp và ấm áp tình người… Mọi thứ phải có từ trong tiềm

thức và có cảm xúc luôn luôn thường trực thì khi nhìn thực tế mới có cộng

hưởng ngân vang lên thành âm thanh và câu chữ. Và như thế thơ Dương

Thuấn chảy tràn như cuộc sống tự nhiên, dạt dào tình quê miền núi, tình

người vùng cao... Dù đã đi khắp mọi miền Tổ quốc, đã đi công tác tại nhiều

quốc gia nay sống giữa trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị xã hội của đất

nước nhưng Dương Thuấn vẫn “tự thú”: “Đọc thơ để thấy người, tôi có bao

giờ giấu nổi tôi đâu. Là người con của dân tộc Tày, những vần thơ của tôi

viết ra mang hồn vía của người Tày”[58]:

Người làm nương ăn theo lửa

Người làm đồng ăn theo nước

Sinh ra tắm nước thơm mới là con của mẹ

Lớn lên tắm nước sông mới là con của làng

Đóng tày đi ra bể

Tắm giữa đại dương mới là người của muôn nơi

(Ăn theo nước)

39



“Ta là chàng trai của núi”, “Ta ở đâu bản ta ở đó” như những lời nói

bình dị, mộc mạc nhưng nó chứa chan một ý nghĩa lớn lao. Đó là quan niệm

giàu chất nhân văn của các trí thức miền núi khi thực hiện sứ mệnh sứ giả văn

hóa của họ. Nhà thơ sinh ra từ bản, “đi khắp trăm nơi” (Làm ăn), “qua ngàn

vạn cánh rừng” (Con rết vua), “đã đến hàng trăm nơi biết muôn vàn thứ”

(Phía sau ngọn núi). Dù đi đâu về đâu, về đâu, dù có ở trên núi, đi xuống

đồng, đi ra biển, ở trong nước hay đi ra nước ngoài thì nhà thơ vẫn đau đáu về

bản Hon quê mình, vẫn nhớ về những mái nhà sàn, về cái bậc cầu thang, về

đèo mây phủ, về những ngọn núi, những cánh rừng. Dương Thuấn là người

không biết mệt mỏi ca ngợi cảnh vật và con người quê mình và chủ đề quê

hương chưa bao giờ trở thành nhàm chán đối với nhà thơ xứ Tày này.

Ý thức bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc được Dương Thuấn coi

như nhiệm vụ tiên phong, hàng đầu. Một trong những giá trị văn hóa mà

Dương Thuấn đặc biệt gìn giữ nhất đó là tiếng mẹ đẻ - tiếng Tày. Dương

Thuấn cho rằng: “Vai trò trách nhiệm của nhà thơ, nhà văn là phải bảo tồn

ngôn ngữ. Việc đưa sách văn học vào trong nhà trường cũng không thể bảo

tồn được. Trách nhiệm đó thuộc về các nhà văn, nhà thơ”[61]. Hiện nay, nhà

thơ thông thuộc bốn thứ tiếng nhưng ông vẫn không quên gìn giữ và trau

chuốt tiếng Tày bằng cách nghe đọc qua sách đĩa và đặc biệt sáng tác bằng

tiếng Tày. Những tập thơ viết bằng tiếng Tày như: Lục pjạ hết lùa (1995),

Slíp nhỉ tua khoăn (2002) và đặc biệt Tuyển tập gồm 3 tập thơ song ngữ (Tày

– Việt) vừa xuất bản 2010 là minh chứng giá trị nhất cho ý thức giữ gìn, bảo

tồn tiếng và chữ viết cho dân tộc mình của Dương Thuấn. Thơ dân tộc thiểu

số trong những năm gần đây đang có nhiều khởi sắc nhưng cũng có nhiều vấn

đề đáng bàn. Trong đó, việc sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ được quan tâm hơn cả.

Nhiều nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số khi bắt đầu viết họ nóng lòng muốn

được mọi người biết đến nên viết bằng tiếng Kinh, nhiều người cho đó là hiện

40



tượng “Kinh hóa” văn học thiểu số. Trước hiện tượng này, Dương Thuấn đã

bày tỏ quan điểm đánh giá “được”, “mất” khi nhà văn dân tộc thiểu số sáng

tác bằng tiếng Việt: “Họ được khá nhiều. Thứ nhất: họ sẽ nổi tiếng nhanh

hơn, nhiều người biết hơn. Thứ hai: sáng tác bằng tiếng Việt in ấn sẽ dễ hơn,

thuận lợi hơn… Tất nhiên họ cũng mất khá lớn. Chẳng hạn vai trò của nhà

văn đối với phát triển văn hóa dân tộc sẽ mất đi. Tôi nghĩ tác phẩm của nhà

văn có sống được hay không thì phải gắn liền với dân tộc, cụ thể là phải gắn

với ngôn ngữ dân tộc. Các tác phẩm văn học không gắn bó với nhiều dân tộc

chung chung, nếu như thế sẽ chỉ sống được trong chốc lát mà thôi”[62].

Tuyển tập thơ song ngữ 3 tập này của Dương Thuấn là một bằng chứng lớn

về tình yêu ngôn ngữ Tày của ông. Nhà thơ dày công viết thơ bằng hai thứ

tiếng (Tày và Kinh) thể hiện sự nỗ lực đưa nét đẹp ngôn ngữ của dân tộc mình

giao lưu với văn hóa của các dân tộc khác.

Thái độ đối với văn hóa truyền thống dân tộc trong thơ Dương Thuấn

còn thể hiện ở sự nâng niu, ca ngợi nếp sinh hoạt văn hóa, những phong tục

tập quán của riêng dân tộc Tày. Người Tày có nhiều phong tục mà đến giờ,

cho dù đã ở thành thị gần 20 năm, tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau

nhưng Dương Thuấn vẫn không thể quên phong tục tập quán của dân tộc

mình. Là người con của dân tộc Tày, Dương Thuấn sinh ra và lớn lên từ núi

rừng Việt Bắc tươi đẹp mà hùng vĩ. Ngay từ nhỏ, ông đã được nuôi nấng, hít

thở không khí văn hóa dân tộc mình. Từ những sinh hoạt hàng ngày, những

câu sli, lượn, câu then rồi lễ Hội Lồng Tồng đến phong tục tập quán của quê

hương đã bồi dưỡng cho ông một tâm hồn đậm chất Tày và đặc điểm ấy

thường xuyên in đậm suốt những bài thơ của ông. Đọc thơ Dương Thuấn, bạn

đọc sẽ được mở mang kiến thức về văn hóa dân tộc Tày hay hơn cả khi bạn

đọc một cuốn sách viết về văn hóa.



41



Nhà thơ Dương Thuấn đã phản ánh được những truyền thống tốt đẹp

trong đời sống tình cảm của người Tày vào thơ mình, đó là tục thờ cúng tổ

tiên. Đây là nét sinh hoạt văn hóa tốt đẹp được truyền lại qua bao đời đến nay

vẫn được người Tày lưu giữ. Nét sinh hoạt văn hóa tâm linh ấy đã đi vào thơ

Dương Thuấn một cách tự nhiên và đem đến cho người đọc những hiểu biết

về cuộc sống của đồng bào Tày.

Hôn nhân gia đình của người Tày tuy theo chế độ phụ hệ nhưng văn

hóa Tày vẫn đề cao, biết ơn vai trò người phụ nữ. Tục đi tết mẹ vợ là một

trong số những mỹ tục của người Tày. Mỗi lần đi thăm tết mẹ vợ người con rể

thường mang mang những vật phẩm cao quý như: một con gà trống thiến to

béo hay một miếng thịt lợn dài đúng bằng thân con lợn do anh ta nuôi. Dù ở

thành phố nhưng nhà thơ Dương Thuấn tâm sự hàng năm ông vẫn thực hiện

đầy đủ hiếu nghĩa này: “Đã làm con rể trẻ hay già/ Dù ở gần hay ở xa/ Đến

tháng giêng nhớ thăm mẹ vợ/ Người đã sinh thành nuôn lớn vợ ta” (Tháng

giêng thăm mẹ vợ).

Còn đây lại là suy nghĩ của một cô gái với bao bỡ ngỡ ngày mới về làm

dâu nhưng cô vẫn nêu cao tinh thần gìn giữ nề nếp gia đình đã trở thành mẫu

mực “công dung ngôn hạnh” của người phụ nữ Tày trong bài thơ Con dâu

nhà sàn: Con dâu nhà sàn bữa nay khép nép/ Không dám đi qua phía trước

bàn thờ/ Không dám ngồi ở mặt trên bếp lửa/ Không dám ăn chung mâm với

bố chồng/ Con dâu nhà sàn dậy sớm nhất mùa đông/ Gánh nước, quét nhà,

nắm cơm đi rẫy/ Nhớ bao điều được làm bao điều kiêng cấm/ Học nói học đi

giữ nếp gia đình

Có thể nói, thơ Dương Thuấn đã phản ánh, lưu giữ những nét đẹp trong

đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Tày, của những dân tộc anh em trên

vùng cao Việt Bắc. Bóng núi bản, bản Hon luôn ngự trị trong các chiều cảm

xúc của nhà thơ xứ Mây. Đó là nỗi niềm gắn bó với phong tục truyền thống

42



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

×