Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 111 trang )
giá trị tinh thần. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa
nhưng các định nghĩa đó vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: văn
hóa là một trong những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người
sáng tạo ra trong sự phát triển của dân tộc. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá
được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ
cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và
truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản
sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc.
1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học
Như chúng ta đã biết: văn học là một thành tố của văn hóa, nằm trong
văn hóa vì thế nó chịu sự chi phối của văn hóa như M. Bakhtin xác định:
“Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó
ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó
tồn tại”[24]. Mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên
một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn
học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng
thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện
của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình.
Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động, sản xuất, ăn
mặc, ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kĩ thuật… đều là điều kiện quan
trọng trong môi trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Những
thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn
hóa như một tổng thể, một hệ thống gồm nhiều yếu tố như: ngôn ngữ, phong
tục tập quán, pháp luật, tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn,
văn học…
Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ đạo
thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó thường
8
xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức là một hệ thống văn hóa. Là
một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát
triển. Tiếp thu những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn
học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống,
làm cho hệ thống phải thay đổi cùng nó. Ở nước ta không ít công trình nghiên
cứu văn học đi sâu vào tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam, xem
bản sắc dân tộc như là phẩm chất của văn học, và cũng có không ít những
công trình nghiên cứu văn hoá xem trọng dẫn liệu văn học như những dấu
hiệu, những tiêu chí góp phần làm sáng tỏ đặc điểm văn hoá, bản sắc văn hoá
của dân tộc. Có thể kể tên những thành tựu mới mẻ, đầy triển vọng của một số
công trình nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận từ văn hóa học như công
trình nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Thuý – Mối quan hệ giữa văn hoá và văn
học (1997), Trần Ngọc Vương – Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung (1997), Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá (1999), Trần Nho Thìn –
Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá (2007)…
Văn học với tư cách là một bộ phận của tổng thể văn hóa, một yếu tố
của hệ thống văn hóa thì không thể và không có quyền qua mặt hệ thống để
tiếp xúc thẳng hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội mà phải gián tiếp
qua hệ thống văn hóa và chỉ “quan hệ” được với hệ thống xã hội thông qua
văn hóa. Như vậy, khung nghiên cứu văn học cũng phải là khung văn hóa.
Trong quan hệ với chuyên ngành nghiên cứu văn học, văn hoá học xem xét
văn học từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu
vào văn học. Trong mối quan hệ với văn hóa học, nghiên cứu văn học và văn
hoá học có nhiều điểm tương đồng về quan điểm phương pháp luận, nhưng
vẫn khác nhau về cơ bản như: tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử, tính dân
tộc… của đối tượng đều được hai ngành quan tâm xem xét. Nghiên cứu văn
hoá học và nghiên cứu văn học đều coi trọng quan điểm hệ thống trong tiếp
9
cận đối tượng, đều quan tâm đến tính thống nhất trong đa dạng của đối tượng.
Nếu như xem xét từ góc độ thời gian, văn hoá học có văn hoá sử, nghiên cứu
văn học có văn học sử. Nếu xem xét từ góc độ không gian, văn hoá học có
văn hoá vùng, văn hoá khu vực, nghiên cứu văn học cũng có văn học vùng,
văn học khu vực. Nếu xem xét từ góc độ chủ thể, văn hoá học có văn hoá dân
tộc, nghiên cứu văn học có văn học dân tộc… Về mặt phương pháp, văn hoá
học và nghiên cứu văn học đều quan tâm đến tính liên ngành, đến việc vận
dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác áp dụng vào đối tượng
nghiên cứu cụ thể của mình.
Đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng
những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác
phẩm. Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc
nhìn văn hóa ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa. Trong đó tác
phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn
giáo, đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng
như sự chi phối của các phương tiện khác nhau. Trong đời sống sinh hoạt xã
hội từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về
các mặt xây dựng nhân vật, kết cấi, mô-típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ…
Phương pháp này có tính chất tổng hợp, trung gian giữa những phương pháp
đọc văn bản khác nhau nhưng vẫn có đặc trưng riêng. Nó thiên về nhiệm vụ
giải mã các hiện tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng
đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong
không gian và thời gian.
Tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của
tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối
chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm
được sản sinh để tìm nguồn gốc các dạng thức quan niệm về con người – thời
10
gian – không gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận
liên ngành trong nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu văn học ngày càng ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn học
với văn hoá, đặc biệt là nghiên cứu văn học tiếp nhận ở văn hoá học quan
điểm về tính tương tác của các hệ thống văn hoá, về góc nhìn văn hoá trong
nghiên cứu đối tượng đặc thù. Lý luận về sự giao thoa giữa văn học và văn
hoá trong lý luận văn học thế giới được giới thiệu khá phong phú ở nước ta
cũng là một trong những cơ sở giúp nghiên cứu văn học ngày càng khám phá
những chiều kích văn hoá trong đời sống năng động của văn học nước nhà.
1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày
1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc
Dân tộc Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái sống chủ yếu ở các tỉnh
miền núi phía Bắc (vùng văn hóa Việt Bắc) như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc
Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang… Bản thân văn hóa Tày đã có
một bản sắc dân tộc riêng nhưng trước hết vì thuộc vùng văn hóa Việt Bắc
nên ít nhiều văn hóa Tày có sự ảnh hưởng của văn hóa vùng. Cư dân chủ yếu
của vùng Việt Bắc là người Tày và người Nùng, ngoài ra, còn một số dân tộc
ít người như: Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay.
Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản
giống các khu vực khác. Về tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư
dân Tày- Nùng hướng niềm tin của con người đến thần bản mệnh, trời đất, tổ
tiên. Họ thờ nhiều thần linh như thần sông, thần núi, thần đất. Ngoài ra, còn
có các ông vua, Giàng Then cũng được dân tộc nơi đây kính cẩn thờ phụng.
Diện mạo tôn giáo Việt Bắc cũng có những nét khác biệt. Các tôn giáo như
Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của
người Việt Bắc. Tam giáo được cư dân Việt Bắc tiếp nhận gần giống người
Việt nhưng ở mức độ thấp hơn và kết hợp với tín ngưỡng vật linh vốn có
11
trong đời sống dân gian. Về chữ viết, vào giai đoạn cổ đại, cư dân ở đây
không có chữ viết; sang giai đoạn cận đại thì có chữ Nôm và giai đoạn hiện
đại thì chữ Nôm tồn tại song song với chữ Latinh. Cũng chính vì vậy, nét
đáng chú ý là cư dân Tày – Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết bằng
chữ viết dân tộc khá sớm như Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài
Đoàn… Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng về thể loại,
phong phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói
ví, câu đố, đồng dao, dân ca. Đặc biệt, lời ca giao duyên: lượn cọi và lượn
tương, là những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày – Nùng ưa chuộng.
Lễ hội của cư dân Tày – Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đồng là
Hội Lồng Tồng (hội xuống đồng), diễn ra hai phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính
là rước thần đình và thần nông ra nơi mở hội ở ngoài đồng. Phần hội căn bản
là các trò chơi như đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật… Như vậy, về
bản chất, Hội Lồng Tồng là một sinh hoạt văn hóa.
Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, không thể không
nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là
nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến một
loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vùng này, và có thể coi như một sinh hoạt
văn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc. Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hóa có
nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể: Tày - Nùng với lịch sử và văn hóa của họ
tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này không phá vỡ tính thống
nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hoá cả nước.
1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày
Nằm trong cái nôi văn hóa vùng Việt Bắc, ngoài những ảnh hưởng của
văn hóa vùng, dân tộc Tày còn có riêng một bản sắc văn hóa, cụ thể là:
Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền phát triển với đủ loại cây
trồng như lúa, ngô, khoai… Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã
12