1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Báo chí >

I/ Khái niệm về văn hóa:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 140 trang )


Tylor có hàng trăm định nghĩa khác. Năm 2001, Viện Thông tin khoa học xã hội đã

thống kê được 150 định nghĩa khác nhau về văn hóa.

Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, nhưng tựu chung ta vẫn có

thể thấy nổi lên 4 đặc trưng cơ bản nhất, là những đặc trưng cần và đủ cho phép

phân biệt văn hóa với những khái niệm có liên quan (như: văn minh, văn hiến, văn

vật…).

-Tính Hệ thống: văn hóa luôn có có 1 bề dày, lưu truyền từ thế hệ này sang

thế hệ khác. Quá trình này tạo những mối quan hệ mật thiết của những hiện tượng,

sự kiện của một nền văn hóa nào đó, giúp phát hiện những đặc trưng, những quy

luật hình thành và phát triển của văn hóa.

-Tính giá trị: Đặc trưng này hàm ý nói đến cái Đẹp, cái Mỹ của Văn hóa.

Cái giá trị và cái phi giá trị trong đời sống con người. Những hoạt động tiêu cực

trong đời sống con người, vẫn thường xuyên xảy ra không được xem là văn hóa

(Thí dụ: buôn lậu, chửi bới, ẩu đã nhau…). Tuy vậy, có nhiều hiện tượng ở vào giai

đoạn lịch sử này được xem là có văn hóa, nhưng trong một giai đoạn khác lại được

đánh giá ngược lại. (Thí dụ: Trong chế độ phong kiến, tư tưởng “Vua xử thần tử

thần bất tử bất trung” được đề cao, nhưng ngày nay tư tưởng này không còn phù

hợp nữa.

-Tính nhân sinh: Đặc trưng này cho phép phân biệt các giá trị văn hóa do

con người tạo nên và mang tính tích cực với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Do vậy

văn hóa trở thành sợi dây nối các hoạt động của con người lại với nhau, liên kết

con người lại với nhau.

-Tính lịch sử: Đặc trưng này chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn,

tính lịch sử tạo cho văn hóa có một bề dày phát triển, một chiều sâu. Văn hóa như

là sản phẩm của một quá trình, được tích lũy qua nhiều thế hệ, tích tụ lại thành

truyền thống văn hóa.

Ngoài 4 đặc trưng trên, có thể nhìn nhận văn hóa theo 2 phạm vi hẹp và

rộng:



14



-Nếu theo nghĩa hẹp, thì văn hóa được giới hạn theo 3 chiều: Giới hạn theo

chiều sâu: văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hóa,

văn hóa nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng: văn hóa được dùng để chỉ những

giá trị văn hóa đặc thù của từng vùng (thí dụ: văn hóa Tây nguyên, văn hóa Nam

bộ…). Giới hạn theo thời gian: văn hóa được dùng để chỉ những giá trị văn hóa

trong từng giai đoạn (văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn…).

-Nếu theo nghĩa rộng, văn hóa được xem là bao gồm tất cả những gì con

người tạo ra.

Theo Tổ chức Unessco thì: “Văn hóa là yếu tố cơ bản về mức sống của một

dân tộc, nó tổng hợp hoạt động sáng tạo của một dân tộc, những phương thức sản

xuất và sở hữu, những của cải vật chất, những hình thể tổ chức, những tín ngưỡng

và những đau khổ, những sự nghiệp đang làm và những giá trị, những mơ ước và

khác vọng.”

Cách đây hơn 50 năm, Chủ tịch Hồ chí Minh đã viết trong bản thảo Nhật ký

trong tù: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo

và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn

học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các

phương thức sử dụng. Tòan bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn

hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà

loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự

sinh tồn” [8 tr 172].

I.1.2/ Bản sắc văn hóa dân tộc:

Do quá trình lao động sáng tạo để tồn tại, con người tạo nên bản sắc văn hóa

riêng của mình, có nét độc đáo riêng, nên bản sắc văn hóa của dân tộc không thể là

yếu tố tĩnh mà là yếu tố động. Luôn luôn động. Văn hóa là nền tảng yếu tố tinh

thần của dân tộc, giữ lại những cái cốt lõi vững bền, nhưng vừa tiếp thu cái mới,



15



gạn lọc tinh nhạy những giá trị văn hóa từ bên ngoài phù hợp để trở thành cái của

mình, thành văn hóa đặc thù của riêng mình.

Vậy "bản sắc văn hóa dân tộc" là gì? Nhiều người cho rằng đó được xem

như là "căn cước" của một dân tộc, không thể nhầm lẫn với các dân tộc khác.

Quang Đạm thì cho rằng: "Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển

chuyển linh hoạt những đặc điểm của một dân tộc tạo nên diện mạo và dạng hình

riêng của dân tộc ấy. Không thể đồng nhất với các dân tộc khác trong một cộng

đồng khu vực hay cộng đồng loài người”. Nhà thơ Huy Cận quan niệm: "Bản sắc

văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Bản sắc văn hóa là hạt

nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này sang đời

khác”. Với phương pháp tiếp cận mới, Phan Ngọc xem xét bản sắc văn hóa không

phải ở sản phẩm mà là ở tính chất, đó là tập hợp của những cách ứng xử

(compartment), là linh hồn của văn hóa, nói cách khác là cái phần ổn định trong khi

biểu hiện của văn hóa là vô cùng đa dạng, thay đổi theo thời gian, kinh tế, chế độ

chính trị. Quan điểm này thống nhất với ý kiến của Hoàng Vinh trong bài giảng về

văn hóa cho nghiên cứu sinh Viện văn hóa - nghệ thuật. Hoàng Vinh cho rằng bản

sắc văn hóa thể hiện trong những chùm đặc điểm mang sắc thái, tính chất, kiểu tổ

chức của riêng mỗi dân tộc chứ không phải là những mặt cụ thể: lòng yêu nước,

tâm hồn bình dị, quan hệ tình nghĩa... mà nhiều dân tộc khác trên thế giới cũng có.

[10 tr 34].

Những lập luận nêu trên tuy còn khác nhau trong cách diễn đạt nhưng đều

hướng đến ý tưởng chung về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của bản sắc văn

hóa dân tộc trong đời sống kinh tế - xã hội.

Năm 1946, trong kế hoạch kiến quốc đầu tiên của nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã đề ra năm quan điểm lớn để xây dựng nền văn hóa dân tộc:

-Xây dựng tâm lý, tính cách tinh thần tự lập tự cường.

-Xây dựng luân lý (biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng).

-Xây dựng xã hội (mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân).

-Xây dựng chính trị (dân quyền).

16



-Xây dựng kinh tế vững mạnh. [19]

Ở nước ta, chỉ sau mấy năm thực hiện kinh tế thị trường, đất nước mở cửa

hội nhập mà đã xuất hiện những chiều hướng trái ngược nhau. Một bộ phận phủ

nhận những giá trị văn hoá dân tộc, cổ súy cho lối sống thực dụng. Hệ quả là sự xói

mòn về đạo đức, tệ nạn xã hội gia tăng. Một bộ phận khác có xu hướng khôi phục

lại các hủ tục truyền thống lạc hậu, lỗi thời, mượn cớ khôi phục truyền thống để mở

đình đám, rược chè, cờ bạc. Như vậy cần phải có sự chỉ đạo, cần có những chính

sách cụ thể, thích hợp để xây dựng một nền văn hóa thực thụ, thấm sâu vào mọi

hoạt động của nhân dân, đồng thời tiếp thu những giá trị tinh hoa và công nghệ tiên

tiến của các nước phát triển trên thế giới

Hiện nay trên thế giới các loại hình công nghệ đều là tổ hợp của 4 yếu tố:

Con người, Kỹ thuật, Thông tin và Tổ chức. Trong đó thì yếu tố Kỹ thuật là tĩnh,

tức những giá trị lao động được kế thừa từ quá khứ, còn 3 yếu tố còn lại đều là

động, tức thuộc về các hoạt động lao động sáng tạo hiện tại của con người. Điều

đặc biệt quan trọng là con người. Văn hóa phương Đông luôn hướng về con Người

chứ không hướng về Vật như văn hóa phương Tây. Chính đời sống tinh thần là cái

quy định tính người của con người. Tuân Tử khẳng định rằng: “Nước lửa có khí

nhưng không có sự sống, cây cỏ có sự sống nhưng không có hiểu biết, cầm thú có

hiểu biết nhưng không có nghĩa. Do đó con người là quý nhất trên đời”. Con người

là chủ thể của mọi hoạt động xã hội. Triết học Mác-Lê Nin nêu rõ: Con người là

vốn quý của xã hội. Do vậy ta cần có chính sách giáo dục đào tạo đội ngũ cán bộ có

tầm trí tuệ cao, để có thể tiếp thu và sử dụng một cách sáng tạo hợp lý khoa học

công nghệ từ bên ngoài.

Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một công việc to lớn và lâu

dài và hết sức cần thiết. Để làm tốt công việc này, trước hết phải làm sáng rõ những

gì là bản lĩnh của dân tộc ta đã được khẳng định và chứng thực trong lịch sử. Đồng

thời phải nghiên cứu những nét độc đáo sáng tạo của Việt nam cả trong sản xuất,

trong cách tổ chức cộng đồng, giáo dục cộng đồng, trong các lĩnh vực quân sự,



17



ngoại giao. Tuy nhiên cũng cần tìm hiểu cho kỹ những nhược điểm trong cách sống

và trong cách nghĩ, cách sáng tạo của chúng ta mà khắc phục.

I.2/ Khái niệm về văn hóa Việt Nam:

I.2.1/ Khái niệm:

Như trên đã nói, mỗi xã hội người, do đặc thù riêng được quy định bởi

những mối quan hệ riêng nên có những nền văn hóa riêng biệt, khác với những nền

văn hóa khác, gọi là bản sắc của nền văn hóa đó.

Văn hóa Việt nam ở Đông Nam Á, thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp

mà điển hình là văn hóa lúa nước. Môi trường thiên nhiên với những vùng đồng

bằng phì nhiêu, mưa nhiều, ẩm ướt, đã định hình cho người Việt nghề trồng trọt để

sống. Nó cũng buộc người Việt phải định cư để chờ cho cây trồng lớn lên, cho trái

mà thu hoạch. Nghề nông nói chung hay trồng lúa nước nói riêng, phụ thuộc nhiều

vào thiên nhiên. Mưa thuận gió hòa thì cây trái tốt tươi, mùa màng bội thu, bằng

nếu mưa dầm nắng hạn, lụt lội dông bão thì mất trắng. Sống phụ thuộc hoàn toàn

vào thiên nhiên nên người làm nông luôn mong ước được sống hoà cùng thiên

nhiên, tôn trọng thiên nhiên, thậm chí thần thánh hóa thiên nhiên (Thần Sấm, Thần

Mưa, Thần Mặt trời, bà Thủy, hạn bà Chằn…). Trong quá trình lao động, người

Việt đã tích lũy những kinh nghiệm từ những hiện tượng thiên nhiên, tổng hợp lại

và rút ra những quy luật của thiên nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của

mình và truyền lại cho đời sau: Móng dài thì nắng móng ngắn thì mưa, Chuồn cuồn

bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì khô; Quạ tắm thì ráo sáo tắm thì

mưa… Do đời sống định cư nên người Việt rất coi trọng cái nhà: sống có cái nhà

chết có cái mồ. Đã có nhà thì phải coi trọng cái bếp, cái ăn, sao cho cơm lành canh

ngọt để có sức mà ngày mai ra đồng. Mà muốn có cái ăn ngon, ăn no phải coi trọng

phụ nữ, là người đứng bếp nấu ăn, chăm lo “bao tử” cho các thành viên trong gia

đình. Người Phụ nữ Việt nam là người giữ tay hòm chìa khóa, là người quản lý tài

18



chính trong gia đình. Nhất vợ nhì Trời; Lệnh ông không bằng cồng bà. Do vậy mà

trong sinh hoạt thì những gì mang tính quan trọng đều gắng liền với giới tính nữ:

Cột cái, sông cái, ngón tay cái, con đường cái…Thậm chí những vật dụng hàng

ngày cũng đều dùng chữ “cái” để chỉ: Cái nhà, cái rựa, cái thau, cái bàn, cái ghế,

cái quần, cái áo, cái nón, cái xe…Người Việt đề cao và tôn thờ phụ nữ qua hình

ảnh bà Chúa Liễu Hạnh, bà Chúa Xứ, Phật bà quan âm (hình ảnh quan thế âm bồ

tát có nguồn gốc ở Ấn độ là nam giới, khi du nhập vào Trung quốc được biến thành

nữ giới cho phù hợp với văn hóa Trung quốc đa phần theo chế độ mẫu hệ lúc bấy

giờ, sau đó du nhập vào Việt nam, người Việt thấy thích hợp nên vẫn giữ nguyên).

Đến nỗi: Ba đồng một mớ đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha, ba trăm một

mụ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. Ngay thế kỷ 15, khi Nho giáo đang

ở đỉnh cao thì trong Bộ luật Hồng Đức nỗi tiếng của nhà Lê, điều 308 vẫn quy định

rằng: nếu trong vòng 5 tháng mà người chống vô cớ không đi lại với vợ thì người

vợ có quyền ly dị. Hoặc điều 388, 391 quy định: sau khi cha mẹ chết, con gái được

quyền thừa kế như con trai. [10, 44]

Nhiều dân tộc ở phương Đông và một số dân tộc ít người ở Việt nam như

Êđê, Giarai…theo chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đi cưới chồng, phải lo hết việc

đồng áng, lo mùa màng, còn đàn ông chỉ ở nhà giữ con. Con cái sinh ra lấy theo họ

mẹ.

91% dân tộc Việt nam là người Kinh, còn lại là 53 dân tộc anh em khác.

Cuộc sống chủ yếu là làm nông nghiệp. Công việc nặng nhọc rất cần sự hổ trợ lẫn

nhau trong lao động theo kiểu đổi công. Nghề nông phụ thuộc nhiều vào thiên

nhiên, buộc người Việt phải nương tựa vào nhau mà chống chọi lại với thú dữ, với

thiên nhiên. Sống có qua có lại nên một bồ cái lý không bằng một tí cái tình, nhất

cận thân nhì cận lân. Mặt trái của lối sống trọng tình là thói xem thường pháp luật,

làm cho tính tổ chức của người làm nông nghiệp kém hơn so với cư dân các nền

văn hóa khác.

Tất cả đã tạo thành một bản sắc riêng của văn hóa Việt nam. Cố Thủ tướng

Phạm Văn Đồng từng nói: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của

19



dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt nam vượt qua

biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không

ngừng phát triển và lớn mạnh”. Hiện trạng văn hóa Việt nam là kết quả của một

tiến trình phát triển lịch sử lâu dài bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn

hóa thời tiền sử và sơ sử cho tới ngày nay. Trong tiến trình văn hóa ấy, những hằng

số văn hóa tạo nên văn hóa Việt nam vốn đã hình thành từ lớp văn hóa bản địa

nhiều ngàn năm trước Công nguyên.

Ngày nay với thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, thế giới đang phát

triển theo xu hướng "thế giới hóa", "đồng dạng hóa” về kỹ thuật và công nghệ;

nhưng ai cũng rõ nếu văn hóa của các dân tộc đều giống nhau thì thật là buồn cho

nhân loại. Cho nên: UNESCO đang khuyến nghị: Giữ gìn, bảo vệ bản sắc dân tộc

của các nền văn hóa. Khuyến nghị ấy được nhiều quốc gia ủng hộ. Nhưng đó chỉ

mới là mục đích làm đa dạng, nhiều màu sắc cho vườn hoa văn hóa của nhân loại.

Đối với Việt Nam, việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn có ý

nghĩa sâu sắc hơn, liên quan đến vận mệnh và sức sống của dân tộc mình. Việt nam

đang còn nghèo, đang mở rộng giao lưu quốc tế để xây dựng và phát triển theo

định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Các nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, âm

mưu diễn biến hòa bình, chệch hướng chủ nghĩa xã hội... đang treo trước mắt. Chỉ

có củng cố nội lực cho mạnh lên mới đủ sức tiếp nhận các "yếu tố ngoại sinh" trong

giao lưu với thế giới để tạo cho chất lượng cuộc sống cao hơn mà không tự đánh

mất mình, không xa rời mục tiêu đã chọn. Bản sắc văn hóa dân tộc như là một thứ

"gien nội sinh" trong quá trình đổi mới. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc được xác định là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; vừa là động lực bên

trong, vừa là mục đích hướng đến quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội

ở nước ta hiện nay.

I.2.2/ Chủ thể của văn hóa Việt nam:



20



Chủ thể văn hóa Việt Nam là người Việt nam, nhưng muốn xác định chủ thể

văn hóa Việt nam thì phải tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt nam. Có nhiều giả

thuyết khác nhau về nguồn gốc dân tộc Việt nam. Trong phạm vi luận văn này chỉ

nghiên cứu theo tài liệu của P.Giáo sư Trần Ngọc Thêm.

Từ cuối thời đại đồ đá mới, khỏang 5.000 năm trước CN, tại khu vực Nam

Trung hoa và Bắc Đông dương, do sự tiếp xúc thường xuyên của chủng người bản

địa Indonesien và chủng Mongoloid từ phương Bắc, đã hình thành một chủng mới

là Nam Á. Với chủng Nam Á, các nét Mongoloid càng nỗi bật, do vậy được xếp

vào ngành Mongoloid phía Nam. Dần dần chủng Nam Á này đã được tách thành

một loạt dân tộc mà trong thư cổ Trung hoa gọi là Bách Việt, họ sinh sống khắp

khu vực phía nam sông Dương Tử cho tới Bắc Trung bộ ngày nay, họp thành

những khối dân cư lớn như Môn-Khơmer, Việt-Mường, Tày Thái, Mèo Dao. Sau

đó quá trình chia tách tiếp tục diễn ra, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các tộc

người cụ thể, trong đó có người Việt (Kinh), tộc người chiếm 91% dân số cả nước.

Nhóm người này đã tách ra từ nhóm Việt-Mường từ cuối thời Bắc thuộc (TK VIIVIII)

Nguồn gốc người Việt Nam thuộc chủng Indonésien cùng với các chủng

Đông Nam Á tiền sử. Cho nên văn hóa Việt nam nằm trong quỹ đạo văn hóa Đông

Nam Á. Trong quá trình phân hóa, các dân tộc Việt nam hình thành nên văn hóa

đặc thù Việt nam “có một nguyên bản riêng, có tính thống nhất đa dạng

(O.R.T.Janse, Đại học, 1969).

Người Việt cùng tuyệt đại các bộ phận tộc người trong thành phần dân tộc

Việt nam đều có cùng một nguồn gốc chung là nhóm người thuộc loại hình

Indonésien. Chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất cao của con người và văn hóa

Việt nam, và rộng hơn là toàn vùng Đông Nam Á. Trong sự đa dạng chung đó lại

luôn có tính thống nhất bộ phận: của người Việt và Mường, của người Việt-Mường

và các dân tộc cùng gốc Nam Á-Bách Việt (Cơ sở văn hoá Việt nam, Phó Giáo sưViện sĩ Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo dục 1999).



21



Việt nam vào khỏang thiên niên kỷ thứ 2 trước CN, do sức ép của của sự

phát triển dân số, các cư dân Môn-Khơmer ở phía bắc (tức người Việt-Mường) đã

ào ạt xuống đồng bằng Châu thổ trũng xung quanh Hà nội, cộng cư với người Tày,

người Thái ở đây. Đã áp dụng mô hình kinh tế lúa nước của người Tày, Thái trong

quá trình khai thác vùng đồng bằng sông Hồng. Quá trình hội tụ, tộc người ấy tạo

nên một nhóm cư dân mới đó là cư dân Việt-Mường. Do sinh tồn, họ phải đắp đê

bảo vệ mùa màng, họ đã liên kết lại để chống ngoại xâm từ phương Bắc tràn

xuống. Họ đề cử một người tù trưởng lớn có ưu thế về kinh tế và quân sự đứng đầu.

Theo truyền thuyết người tù trưởng ấy là Vua Hùng.

Ngày nay sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực không chỉ do vấn đề

không gian địa lý mà cao hơn là còn do có cùng một nền tảng văn hóa thống nhất.

Sự đa dạng và phong phú của của những nền văn hóa trong các nước ở khu vực

Đông Nam Á phát triển trên một tầng văn hóa chung, gọi là văn hóa Đông Nam Á

bản địa. Ngày nay Việt nam là một thành viên của Asean và đang hội nhập toàn

diện vào khu vực, vì vậy chúng ta một mặt rất cần ý thức về bản sắc văn hóa riêng

của Việt nam, nhưng mặt khác cũng rất cần để tìm hiểu về cơ tầng Văn hóa Đông

Nam Á để tìm thấy một sự gắng bó sâu sắc cho việc hội nhập thành công vào cộng

đồng khu vực.

Văn hóa lúa nước đã trở thành đặc điểm chính của của nền văn hóa bản địa

Đông Nam Á. Điều này được minh chứng bằng hàng loạt các loại công cụ chuyên

dùng như: Cuốc, lưỡi cày, nhíp, dao gặt…đồ dùng hàng ngày để nấu cơm như: nồi,

chõ…đã đào được trong thời kỳ này. Sách cổ Trung quốc, cuốn “Nam phương thảo

mộc trạng” có ghi rằng: thời kỳ đầu Công nguyên, người Bách Việt có trồng lúa

nếp và dùng lúa nếp để nấu rượu. Theo “Thuỷ kinh chú” năm 111 truớc CN, sứ giả

Giao chỉ có cống nạp cho Tướng Hán là Bác Lộ Đức 1.000 hũ rượu ngon. Có thể

khẳng định rằng: Việt nam có một nền văn hóa bản địa nảy sinh và phát triển cùng

với các nền văn hóa khác trong khu vực, nằm trong một chỉnh thể văn hóa Đông

Nam Á cổ đại, mà nỗi bật là văn hóa lúa nước. Điều nầy biểu hiện rất rõ ở tục thờ



22



nước, té nước, lễ tạ ơn Mẹ nước, tạ ơn Thần Mưa, hội đua thuyền…rất phổ biến ở

các nước Đông Nam Á cũng như ở Việt nam.

Cũng theo Phó Giáo sư Trần Ngọc Thêm, văn hóa Việt nam có 6 vùng:

*Vùng văn hóa Tây bắc: là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp

bên hữu ngạn sông Hồng kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Khu vực này có 20 tộc

người cư trú, trong đó các dân tộc Thái, Mường là tiêu biểu. Biểu trưng cho vùng

văn hóa này là hệ thống mương phai, ngăn suối dẫn nước vào đồng ruộng, là nghệ

thuật trang trí trên trên chiếc khăn Piêu, những điệu múa Xòe của người Thái, chiếc

cạp váy của người Mường, bộ trang phục của người H’mông. Biểu trưng khác là

các loại nhạc cụ thuộc bộ hơi như: Khèn, sáo...

*Vùng văn hóa Việt Bắc: là khu vực bao gồm hệ thống nùi non hiểm trở

bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân vùng này chủ yếu là người Tày, Nùng với trang

phục giản dị, với lễ hội Lồng tồng (xuống đồng) nỗi tiếng.

*Vùng văn hóa Bắc bộ: Có hình một tam giác bao gồm vùng châu thổ sông

Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với dân cư Việt (người Kinh) sống quần tụ

thành làng xã. Đây là vùng đất đai trù phú, do vậy từng là cái nôi của văn hóa Đông

sơn.

*Vùng văn hóa Trung bộ: Vị trí địa lý là trên một dãi đất hẹp chạy dài ven

biển từ Quảng bình tới Bình thuận. Do khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn nên

con người ở đây rất cần cù, hiếu học. Họ thạo nghề đi biển, trong bửa ăn cũng giàu

chất biển, thích ăn cay (có thể do để làm mất mùi tanh của cá biển). Trước kia nơi

đây từng là điạ bàn cư trú của người Chăm với một nền văn hóa khá đặc sắc. Đến

nay di tích còn để lại là những tháp Chàm.



23



*Vùng văn hóa Nam bộ: Nằm trong lưu vực sông Đồng nai và hệ thống

sông Cữu long với khí hậu 2 mùa mưa nắng rõ rệt (khô và mưa), với mênh mông

sông nước và kênh rạch. Các dân cư Việt-Chăm-Hoa đã tới cùng sống hòa nhập với

thiên nhiên và hòa nhập với cư dân bản địa gồm: Khmer, Mạ, Xtiêng, Chơro,

Mnông. Nhà ở có khuynh hướng trải dài theo ven kênh mương, ven lộ; bữa ăn giàu

thuỷ sản; tính cách con người phóng khoáng; tín ngưỡng tôn giáo hết sức phong

phú đa dạng, họ sớm hội nhập giao lưu với văn hóa phương Tây.

Tóm lại, văn hóa Việt nam được cấu thành từ cơ tầng văn hóa Đông Nam Á,

đã tạo ra một nội lực đủ mạnh để dân tộc Việt nam chống cự lại với sự đồng hóa rất

mạnh từ hàng ngàn năm bị phương các dân tộc phương Bắc đô hộ. Truyền thống

văn hóa Việt nam ngày càng phong phú và có bản sắc riêng do sự tiếp xúc, vay

mượn, nhưng vẫn bảo tồn được cái gốc, cái cội rễ ổn định ban đầu. Văn hóa truyền

thống Việt nam là cái nội sinh của bản sắc văn hóa dân tộc, được xác lập từ thời

Văn lang-Âu Lạc, được bảo tồn và phát triển trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với

văn hóa ngoại lai (văn hóa Ấn độ và Trung hoa).

I. 3/ Sự giao lƣu của các vùng miền văn hóa:

Giao lưu văn hóa là sự trao đổi qua lại những sản phẩm văn hóa giữa các

cộng đồng xã hội khác nhau, hay giữa các cộng đồng dân tộc, quốc gia khác nhau.

Sản phẩm văn hóa khởi đầu có thể là do kinh nghiệm, tri thức, gọi một cách khái

quát là thông tin. Thông tin ấy được kết tinh thành một giá trị và chuẩn mực xã hội,

thành truyền thống xã hội, gọi chung là hệ gía trị xã hội, nó quy định cách tồn tại

và thế ứng xử của con người với thiên nhiên, với xã hội và bản thân. Phương Tây

có câu ngạn ngữ: “Nếu 2 người, mỗi người có 1 vật đem trao đồi cho nhau thì mỗi

người vẫi có 1 vật. Còn mỗi người có 1 thông tin đem trao đổi cho nhau thì mỗi

người sẽ có 2 thông tin”.

Có một thời người ta nghĩ rằng: Văn hóa chỉ được phát minh tại một số vùng

nào đó, về sau lan truyền ra khắp thế giới. Đây chính là thuyết “Vòng văn hóa” của

24



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

×