Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 140 trang )
chính trong gia đình. Nhất vợ nhì Trời; Lệnh ông không bằng cồng bà. Do vậy mà
trong sinh hoạt thì những gì mang tính quan trọng đều gắng liền với giới tính nữ:
Cột cái, sông cái, ngón tay cái, con đường cái…Thậm chí những vật dụng hàng
ngày cũng đều dùng chữ “cái” để chỉ: Cái nhà, cái rựa, cái thau, cái bàn, cái ghế,
cái quần, cái áo, cái nón, cái xe…Người Việt đề cao và tôn thờ phụ nữ qua hình
ảnh bà Chúa Liễu Hạnh, bà Chúa Xứ, Phật bà quan âm (hình ảnh quan thế âm bồ
tát có nguồn gốc ở Ấn độ là nam giới, khi du nhập vào Trung quốc được biến thành
nữ giới cho phù hợp với văn hóa Trung quốc đa phần theo chế độ mẫu hệ lúc bấy
giờ, sau đó du nhập vào Việt nam, người Việt thấy thích hợp nên vẫn giữ nguyên).
Đến nỗi: Ba đồng một mớ đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha, ba trăm một
mụ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. Ngay thế kỷ 15, khi Nho giáo đang
ở đỉnh cao thì trong Bộ luật Hồng Đức nỗi tiếng của nhà Lê, điều 308 vẫn quy định
rằng: nếu trong vòng 5 tháng mà người chống vô cớ không đi lại với vợ thì người
vợ có quyền ly dị. Hoặc điều 388, 391 quy định: sau khi cha mẹ chết, con gái được
quyền thừa kế như con trai. [10, 44]
Nhiều dân tộc ở phương Đông và một số dân tộc ít người ở Việt nam như
Êđê, Giarai…theo chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đi cưới chồng, phải lo hết việc
đồng áng, lo mùa màng, còn đàn ông chỉ ở nhà giữ con. Con cái sinh ra lấy theo họ
mẹ.
91% dân tộc Việt nam là người Kinh, còn lại là 53 dân tộc anh em khác.
Cuộc sống chủ yếu là làm nông nghiệp. Công việc nặng nhọc rất cần sự hổ trợ lẫn
nhau trong lao động theo kiểu đổi công. Nghề nông phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên, buộc người Việt phải nương tựa vào nhau mà chống chọi lại với thú dữ, với
thiên nhiên. Sống có qua có lại nên một bồ cái lý không bằng một tí cái tình, nhất
cận thân nhì cận lân. Mặt trái của lối sống trọng tình là thói xem thường pháp luật,
làm cho tính tổ chức của người làm nông nghiệp kém hơn so với cư dân các nền
văn hóa khác.
Tất cả đã tạo thành một bản sắc riêng của văn hóa Việt nam. Cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng từng nói: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của
19
dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt nam vượt qua
biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không
ngừng phát triển và lớn mạnh”. Hiện trạng văn hóa Việt nam là kết quả của một
tiến trình phát triển lịch sử lâu dài bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn
hóa thời tiền sử và sơ sử cho tới ngày nay. Trong tiến trình văn hóa ấy, những hằng
số văn hóa tạo nên văn hóa Việt nam vốn đã hình thành từ lớp văn hóa bản địa
nhiều ngàn năm trước Công nguyên.
Ngày nay với thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, thế giới đang phát
triển theo xu hướng "thế giới hóa", "đồng dạng hóa” về kỹ thuật và công nghệ;
nhưng ai cũng rõ nếu văn hóa của các dân tộc đều giống nhau thì thật là buồn cho
nhân loại. Cho nên: UNESCO đang khuyến nghị: Giữ gìn, bảo vệ bản sắc dân tộc
của các nền văn hóa. Khuyến nghị ấy được nhiều quốc gia ủng hộ. Nhưng đó chỉ
mới là mục đích làm đa dạng, nhiều màu sắc cho vườn hoa văn hóa của nhân loại.
Đối với Việt Nam, việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn có ý
nghĩa sâu sắc hơn, liên quan đến vận mệnh và sức sống của dân tộc mình. Việt nam
đang còn nghèo, đang mở rộng giao lưu quốc tế để xây dựng và phát triển theo
định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Các nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, âm
mưu diễn biến hòa bình, chệch hướng chủ nghĩa xã hội... đang treo trước mắt. Chỉ
có củng cố nội lực cho mạnh lên mới đủ sức tiếp nhận các "yếu tố ngoại sinh" trong
giao lưu với thế giới để tạo cho chất lượng cuộc sống cao hơn mà không tự đánh
mất mình, không xa rời mục tiêu đã chọn. Bản sắc văn hóa dân tộc như là một thứ
"gien nội sinh" trong quá trình đổi mới. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc được xác định là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; vừa là động lực bên
trong, vừa là mục đích hướng đến quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
ở nước ta hiện nay.
I.2.2/ Chủ thể của văn hóa Việt nam:
20
Chủ thể văn hóa Việt Nam là người Việt nam, nhưng muốn xác định chủ thể
văn hóa Việt nam thì phải tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt nam. Có nhiều giả
thuyết khác nhau về nguồn gốc dân tộc Việt nam. Trong phạm vi luận văn này chỉ
nghiên cứu theo tài liệu của P.Giáo sư Trần Ngọc Thêm.
Từ cuối thời đại đồ đá mới, khỏang 5.000 năm trước CN, tại khu vực Nam
Trung hoa và Bắc Đông dương, do sự tiếp xúc thường xuyên của chủng người bản
địa Indonesien và chủng Mongoloid từ phương Bắc, đã hình thành một chủng mới
là Nam Á. Với chủng Nam Á, các nét Mongoloid càng nỗi bật, do vậy được xếp
vào ngành Mongoloid phía Nam. Dần dần chủng Nam Á này đã được tách thành
một loạt dân tộc mà trong thư cổ Trung hoa gọi là Bách Việt, họ sinh sống khắp
khu vực phía nam sông Dương Tử cho tới Bắc Trung bộ ngày nay, họp thành
những khối dân cư lớn như Môn-Khơmer, Việt-Mường, Tày Thái, Mèo Dao. Sau
đó quá trình chia tách tiếp tục diễn ra, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các tộc
người cụ thể, trong đó có người Việt (Kinh), tộc người chiếm 91% dân số cả nước.
Nhóm người này đã tách ra từ nhóm Việt-Mường từ cuối thời Bắc thuộc (TK VIIVIII)
Nguồn gốc người Việt Nam thuộc chủng Indonésien cùng với các chủng
Đông Nam Á tiền sử. Cho nên văn hóa Việt nam nằm trong quỹ đạo văn hóa Đông
Nam Á. Trong quá trình phân hóa, các dân tộc Việt nam hình thành nên văn hóa
đặc thù Việt nam “có một nguyên bản riêng, có tính thống nhất đa dạng
(O.R.T.Janse, Đại học, 1969).
Người Việt cùng tuyệt đại các bộ phận tộc người trong thành phần dân tộc
Việt nam đều có cùng một nguồn gốc chung là nhóm người thuộc loại hình
Indonésien. Chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất cao của con người và văn hóa
Việt nam, và rộng hơn là toàn vùng Đông Nam Á. Trong sự đa dạng chung đó lại
luôn có tính thống nhất bộ phận: của người Việt và Mường, của người Việt-Mường
và các dân tộc cùng gốc Nam Á-Bách Việt (Cơ sở văn hoá Việt nam, Phó Giáo sưViện sĩ Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo dục 1999).
21
Việt nam vào khỏang thiên niên kỷ thứ 2 trước CN, do sức ép của của sự
phát triển dân số, các cư dân Môn-Khơmer ở phía bắc (tức người Việt-Mường) đã
ào ạt xuống đồng bằng Châu thổ trũng xung quanh Hà nội, cộng cư với người Tày,
người Thái ở đây. Đã áp dụng mô hình kinh tế lúa nước của người Tày, Thái trong
quá trình khai thác vùng đồng bằng sông Hồng. Quá trình hội tụ, tộc người ấy tạo
nên một nhóm cư dân mới đó là cư dân Việt-Mường. Do sinh tồn, họ phải đắp đê
bảo vệ mùa màng, họ đã liên kết lại để chống ngoại xâm từ phương Bắc tràn
xuống. Họ đề cử một người tù trưởng lớn có ưu thế về kinh tế và quân sự đứng đầu.
Theo truyền thuyết người tù trưởng ấy là Vua Hùng.
Ngày nay sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực không chỉ do vấn đề
không gian địa lý mà cao hơn là còn do có cùng một nền tảng văn hóa thống nhất.
Sự đa dạng và phong phú của của những nền văn hóa trong các nước ở khu vực
Đông Nam Á phát triển trên một tầng văn hóa chung, gọi là văn hóa Đông Nam Á
bản địa. Ngày nay Việt nam là một thành viên của Asean và đang hội nhập toàn
diện vào khu vực, vì vậy chúng ta một mặt rất cần ý thức về bản sắc văn hóa riêng
của Việt nam, nhưng mặt khác cũng rất cần để tìm hiểu về cơ tầng Văn hóa Đông
Nam Á để tìm thấy một sự gắng bó sâu sắc cho việc hội nhập thành công vào cộng
đồng khu vực.
Văn hóa lúa nước đã trở thành đặc điểm chính của của nền văn hóa bản địa
Đông Nam Á. Điều này được minh chứng bằng hàng loạt các loại công cụ chuyên
dùng như: Cuốc, lưỡi cày, nhíp, dao gặt…đồ dùng hàng ngày để nấu cơm như: nồi,
chõ…đã đào được trong thời kỳ này. Sách cổ Trung quốc, cuốn “Nam phương thảo
mộc trạng” có ghi rằng: thời kỳ đầu Công nguyên, người Bách Việt có trồng lúa
nếp và dùng lúa nếp để nấu rượu. Theo “Thuỷ kinh chú” năm 111 truớc CN, sứ giả
Giao chỉ có cống nạp cho Tướng Hán là Bác Lộ Đức 1.000 hũ rượu ngon. Có thể
khẳng định rằng: Việt nam có một nền văn hóa bản địa nảy sinh và phát triển cùng
với các nền văn hóa khác trong khu vực, nằm trong một chỉnh thể văn hóa Đông
Nam Á cổ đại, mà nỗi bật là văn hóa lúa nước. Điều nầy biểu hiện rất rõ ở tục thờ
22
nước, té nước, lễ tạ ơn Mẹ nước, tạ ơn Thần Mưa, hội đua thuyền…rất phổ biến ở
các nước Đông Nam Á cũng như ở Việt nam.
Cũng theo Phó Giáo sư Trần Ngọc Thêm, văn hóa Việt nam có 6 vùng:
*Vùng văn hóa Tây bắc: là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp
bên hữu ngạn sông Hồng kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Khu vực này có 20 tộc
người cư trú, trong đó các dân tộc Thái, Mường là tiêu biểu. Biểu trưng cho vùng
văn hóa này là hệ thống mương phai, ngăn suối dẫn nước vào đồng ruộng, là nghệ
thuật trang trí trên trên chiếc khăn Piêu, những điệu múa Xòe của người Thái, chiếc
cạp váy của người Mường, bộ trang phục của người H’mông. Biểu trưng khác là
các loại nhạc cụ thuộc bộ hơi như: Khèn, sáo...
*Vùng văn hóa Việt Bắc: là khu vực bao gồm hệ thống nùi non hiểm trở
bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân vùng này chủ yếu là người Tày, Nùng với trang
phục giản dị, với lễ hội Lồng tồng (xuống đồng) nỗi tiếng.
*Vùng văn hóa Bắc bộ: Có hình một tam giác bao gồm vùng châu thổ sông
Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với dân cư Việt (người Kinh) sống quần tụ
thành làng xã. Đây là vùng đất đai trù phú, do vậy từng là cái nôi của văn hóa Đông
sơn.
*Vùng văn hóa Trung bộ: Vị trí địa lý là trên một dãi đất hẹp chạy dài ven
biển từ Quảng bình tới Bình thuận. Do khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn nên
con người ở đây rất cần cù, hiếu học. Họ thạo nghề đi biển, trong bửa ăn cũng giàu
chất biển, thích ăn cay (có thể do để làm mất mùi tanh của cá biển). Trước kia nơi
đây từng là điạ bàn cư trú của người Chăm với một nền văn hóa khá đặc sắc. Đến
nay di tích còn để lại là những tháp Chàm.
23
*Vùng văn hóa Nam bộ: Nằm trong lưu vực sông Đồng nai và hệ thống
sông Cữu long với khí hậu 2 mùa mưa nắng rõ rệt (khô và mưa), với mênh mông
sông nước và kênh rạch. Các dân cư Việt-Chăm-Hoa đã tới cùng sống hòa nhập với
thiên nhiên và hòa nhập với cư dân bản địa gồm: Khmer, Mạ, Xtiêng, Chơro,
Mnông. Nhà ở có khuynh hướng trải dài theo ven kênh mương, ven lộ; bữa ăn giàu
thuỷ sản; tính cách con người phóng khoáng; tín ngưỡng tôn giáo hết sức phong
phú đa dạng, họ sớm hội nhập giao lưu với văn hóa phương Tây.
Tóm lại, văn hóa Việt nam được cấu thành từ cơ tầng văn hóa Đông Nam Á,
đã tạo ra một nội lực đủ mạnh để dân tộc Việt nam chống cự lại với sự đồng hóa rất
mạnh từ hàng ngàn năm bị phương các dân tộc phương Bắc đô hộ. Truyền thống
văn hóa Việt nam ngày càng phong phú và có bản sắc riêng do sự tiếp xúc, vay
mượn, nhưng vẫn bảo tồn được cái gốc, cái cội rễ ổn định ban đầu. Văn hóa truyền
thống Việt nam là cái nội sinh của bản sắc văn hóa dân tộc, được xác lập từ thời
Văn lang-Âu Lạc, được bảo tồn và phát triển trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với
văn hóa ngoại lai (văn hóa Ấn độ và Trung hoa).
I. 3/ Sự giao lƣu của các vùng miền văn hóa:
Giao lưu văn hóa là sự trao đổi qua lại những sản phẩm văn hóa giữa các
cộng đồng xã hội khác nhau, hay giữa các cộng đồng dân tộc, quốc gia khác nhau.
Sản phẩm văn hóa khởi đầu có thể là do kinh nghiệm, tri thức, gọi một cách khái
quát là thông tin. Thông tin ấy được kết tinh thành một giá trị và chuẩn mực xã hội,
thành truyền thống xã hội, gọi chung là hệ gía trị xã hội, nó quy định cách tồn tại
và thế ứng xử của con người với thiên nhiên, với xã hội và bản thân. Phương Tây
có câu ngạn ngữ: “Nếu 2 người, mỗi người có 1 vật đem trao đồi cho nhau thì mỗi
người vẫi có 1 vật. Còn mỗi người có 1 thông tin đem trao đổi cho nhau thì mỗi
người sẽ có 2 thông tin”.
Có một thời người ta nghĩ rằng: Văn hóa chỉ được phát minh tại một số vùng
nào đó, về sau lan truyền ra khắp thế giới. Đây chính là thuyết “Vòng văn hóa” của
24
nhà Dân tộc học người Đức Gơrepne (1877-1934). Theo lý thuyết này thì các hiện
tượng văn hóa chỉ là sản phẩm của một số khu vực nhất định, chỉ có những dân tộc
ưu đẳng mới sáng tạo ra văn hóa. Lý thuyết này đã đặt cơ sở cho thuyết Trung tâm
châu Âu, đã trở thành căn cứ lý luận cho các hành động diệt chủng man rợ của bọn
Phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ II. Thực ra trong bất cứ cộng đồng xã hội
nào, dù trình độ phát triển đến đâu cũng đều có thể sáng tạo ra văn hóa. Các nhà
khảo cổ học cho biết: con người ngay từ khi hình thành đã có 3 trung tâm văn hóa,
tương tứng với 3 đại chủng là Âu, Á và Phi. Trong thời cổ đại, văn hóa được sáng
tạo ra cùng một lúc với nhiều trung tâm như Ai Cập, Andien (châu Phi), Lưỡng Hà,
vùng biển Êgie (Hy lạp), Ấn độ, Trung Hoa và Trung Mỹ. Phần đông các nhà
nghiên cứu đều thừa nhận văn hóa xuất hiện tại nhiều trung tâm khác nhau, học tập
lẫn nhau, bổ sung cho nhau để tự hoàn thiện, đồng thời tự phát triển bản sắc văn
hóa của mỗi cộng đồng trong sự đa dạng của văn hóa loài người.
Trong lịch sử xã hội loài người, quá trình giao lưu văn hóa diễn ra một cách
hòa bình và hữu nghị. Đó là trường hợp giao lưu văn hóa thông qua buôn bán, trao,
tiếp xúc, tự nguyện tiếp nhận những cái hay của người khác. Tuy nhiên cũng có
những trường giao lưu cưỡng bức (acculturation). Đó là khi nước mạnh xâm lược
nước yếu rồi áp đặt văn hóa của mình lên nước bị xâm chiếm, buộc dân bản địa
phải tiếp thu một cách cưỡng chế. Trong trường hợp này giao lưu văn hóa có thể
biến thành xung đột văn hóa. Như vậy, giao lưu văn hóa là sự vận động thường
xuyên của tiến trình tiến hóa xã hội loài người. Đó là phép biện chứng của sự phát
triển giao lưu văn hóa trong đồi sống cộng đồng hay xã hội.
Với vị trí địa lý là giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển lịch
sử-xã hội Việt nam đã bị chi phối mạnh mẽ do các quan hệ giao lưu văn hóa rộng
rãi với cả vùng Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn độ, và cả phương Tây. Trong đó, văn
hóa Trung hoa, qua quá trình 1000 năm bị áp bức đồng hóa, giao thoa, hỗn
dung…đã để lại dấu ấn sâu đậm hơn cả.
I.3.1/ Sự giao lƣu văn hóa từ phƣơng Bắc:
25