Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 180 trang )
CHƢƠNG II - KHẢO SÁT NHỮNG HIỆN TƢỢNG
CHÊM XEN BIỂU THỊ TÌNH THÁI TRONG TIẾNG ANH.
A. Xét về mặt kết học
I. Cấu tạo của thành phần chêm xen biểu thị tình thái trong tiếng Anh.
Theo Heather MacFadyen (2006), các biểu thức chêm xen tình thái là
những từ ngữ được chêm vào trong phát ngôn nhằm thể hiện thái độ hoặc sắc
thái tình cảm của người nói. Những biểu thức chêm xen tình thái này không
có quan hệ ngữ pháp chặt chẽ với bất kỳ một thành phần nào khác trong câu.
Ông cũng cho rằng thành phần này hiếm xuất hiện trong văn phong mang tính
chất nghi thức, trang trọng, trừ một số trường hợp trích dẫn trực tiếp.
Biểu thức chêm xen tình thái trong tiếng Anh tồn tại dưới nhiều hình
thức với cấu tạo, ý nghĩa và chức năng khác nhau. Chúng có thể là những từ
hay những cụm từ có nghĩa miêu tả hoặc không có nghĩa miêu tả, có chức
năng định danh hay không có chức năng định danh. Tuy nhiên, chúng đều có
một đặc điểm chung là chứa đựng ý nghĩa tình thái, một loại nghĩa phi miêu
tả. Vì điều kiện còn hạn chế nên luận văn này chỉ đi sâu nghiên cứu những
biểu thức chêm xen tình thái được cấu tạo từ những thành phần có ý nghĩa. Để
phân biệt được biểu thức chêm xen tình thái với các thành phần chêm xen tình
thái khác trong câu, sau đây chúng tôi sẽ phân biệt sự khác nhau giữa biểu
thức chêm xen tình thái và các thán từ tình thái trong tiếng Anh.
1. Phân biệt giữa thán từ tình thái, biểu thức chêm xen tình thái và
từ điệp khúc biểu thị tình thái.
Trong tiếng Anh khẩu ngữ tồn tại một bộ phận không lớn các từ chêm
xen không có chức năng định danh hay chức năng ngữ pháp, không mang
nghĩa từ vựng mà chỉ mang lại ý nghĩa tình thái như: Wow (chà), Yuck
(khiếp), Ouch (Ui da, ái)… Thành phần này mang chức năng lời nói thứ yếu.
Chúng hoạt động như là những cử chỉ bằng lời của người phát ngôn. Trong
33
thực tế, nhiều khi hình thức ngôn ngữ này không được coi là ngôn ngữ mà
chúng chỉ là thứ ngôn ngữ nguyên sơ (protolanguage) như: Wow, oh, gee,
whew, alas, oops, hurrah, ugh…Các từ này thường có vị trí ở đầu câu và cuối
câu hoặc đứng độc lập một mình dưới dạng một phát ngôn đặc biệt.
-
Ouch, that hurt!
(Ui da, đau quá!)
(http://www.arts.uottawa.ca/writcent/hypergrammar/interjct.html)
-
Yuck, I stepped in dog shit!
(Khiếp quá, tôi đã giẫm phải phân chó!)
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, Tr.115)
-
Gee, I really can‟t.
(Trời, mình thực sự không thể.)
(Jack C. Richards, Listen for it, tr.59)
-
Arg! We can‟t go fishing.
(Ối! Chúng ta không thể đi câu được.)
-
Eep! I was feeling a little hungry.
(Không! Tôi cảm thấy hơi đói bụng.)
-
Yikes! Is he going to raise our rent?
(Ối, trời ơi! Ông ấy sắp tăng tiền thuê nhà của chúng ta à?)
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, Tr.80)
-
He has a new car, eh?
(Hắn có một cái xe mới, hả?)
(Khẩu ngữ)
34
Thứ ngôn ngữ nguyên sơ này thường được các nhà ngôn ngữ học gọi là
các thán từ tình thái. Chúng thường được thốt lên khi chủ thể phát ngôn cảm
thấy kinh ngạc, hay khi gặp sự việc phiền phức, phải chứng kiến những cảnh
không ngờ tới hay khi nghi hoặc trước một sự việc hiện tượng nào đó ở thế
giới quanh họ. Nói cách khác là chúng chỉ diễn đạt những phản ứng tâm sinh
lí của con người mà không mang nghĩa biểu hiện hay nghĩa miêu tả.
Những thán từ tình thái này bị hạn chế về mặt cấu tạo, vị trí cũng như
ý nghĩa, chức năng của chúng trong giao tiếp so với các biểu thức chêm xen
tình thái như “the hell” (địa ngục), “the devil” (ma quái), “damn” (nguyền
rủa)… Các biểu thức chêm xen tình thái được cấu tạo từ những từ có nghĩa
gốc đầy đủ, đa dạng về cấu trúc, vị trí và ý nghĩa trong phát ngôn. Chúng có
thể tồn tại dưới dạng từ như “hell” (mẹ kiếp) hoặc dạng ngữ như “son of a
bitch” (đồ con hoang, đồ chó chết). Không những phong phú về mặt cấu tạo
mà chúng còn đa dạng cả về mặt vị trí và chức năng trong câu. Chúng có thể
đứng đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Các biểu thức chêm xen tình thái
không chỉ đơn thuần biểu thị sự ngạc nhiên, nghi hoặc, bực bội mà chúng còn
nhiều chức năng khác như chức năng nhấn mạnh, đánh giá biểu cảm, đánh giá
chủ quan của chủ thể phát ngôn trước một hiện thực nào đó và đôi khi còn
tham gia biểu thị mục đích phát ngôn. Những đặc điểm này không có ở những
thán từ tình thái. Đặc biệt là thán từ tình thái không chứa đựng đánh giá chủ
quan của chủ ngôn mà chỉ là phản ứng tâm sinh lý của con người. Hơn nữa,
trong khi các thán từ không phải là những từ ngữ mang ý nghĩa miêu tả thì
các biểu thức chêm xen tình thái đều có nguồn gốc từ những từ ngữ có nghĩa
miêu tả. Khi các biểu thức chêm xen tình thái được chêm xen vào phát ngôn,
chúng bị mất đi ý nghĩa miêu tả của mình và thay vào đó là một ý nghĩa tình
thái. Còn các thán từ thì không có sự thay đổi về ý nghĩa (từ nghĩa miêu tả
chuyển sang nghĩa tình thái) vì bản thân chúng không hề có nghĩa miêu tả.
35
-
Hell, who needs a job?
(Mẹ kiếp, ai cần việc chứ?)
(James Thayer, Force 12, tr.542)
-
Where the devil is Glick?
(Glick đang ở chỗ quái quỉ nào không biết nữa?)
(Don Brown, Angles and Demons, tr. 341)
-
I'm going to sue you, you dirty son of a bitch.
(Đồ chó, tao sẽ đưa mày ra tòa.) (PHT dịch KCGMM, tr. 90)
(Sidney Sheldon, Nothing lasts forever, tr. 64)
Ngoài ra, trong khẩu ngữ tiếng Anh còn tồn tại những biệt tố tình thái
được hình thành từ những từ thông thường được nói luyến vì một lý do tôn
giáo hay tín ngưỡng nào đó. Những từ được nói luyến này được gọi là những
từ điệp khúc. Loại từ điệp khúc này là những từ ngữ chêm xen được chỉnh sửa
chút ít về mặt ngữ âm để giảm mức độ thô tục hoặc tránh nói trực tiếp (vì cấm
kỵ hoặc mang tính tôn giáo). Chúng đều bắt nguồn từ những từ gốc có nghĩa
miêu tả và có cấu tạo vỏ âm thanh khá gần với từ gốc. Chẳng hạn từ “shit”
(phân) được chuyển thành “shoot” hoặc “shaatz” như trong:
-
Shaatz! Look at those cool shoes.
(Tuyệt thật! Hãy nhìn đôi giày xinh đẹp kia kìa.)
-
Shoot, get out of my side!
(Mẹ kiếp, biến khỏi mắt tao ngay!)
(Khẩu ngữ)
36
Hoặc “fricking”, “frigging” thay cho “fucking”(chết tiệt, mẹ kiếp) vì
bản thân từ “fuck” là một từ dùng để chỉ sự giao cấu, bị coi là rất tục tĩu trong
tiếng Anh.
-
She‟s fricking hot.
(Con bé thật là ngon. )
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, tr. 195)
-
Jesus Christ, Mike! We‟re at the frigging North Pole and you still
manage to meet gorgeous women.
(Lạy chúa tôi, Mike! Ở tận cực Bắc khỉ ho cò gáy này mà anh vẫn kiếm
được những cô gái chân dài.) (PHT dịch KCGMM, tr. 95)
(Dan Brown, Deception point, tr. 110)
Ngôn ngữ điệp khúc trong những từ ngữ mang tính tôn giáo cũng được
dùng rất nhiều trong khẩu ngữ. Bởi lẽ tôn giáo là rất đa dạng và nhiều người
nhạy cảm với những lời nói mang tính chất tôn giáo. Đó là lí do họ đã dùng
biện pháp điệp khúc từ để tránh xúc phạm đến tôn giáo của họ. Chẳng hạn
như “gosh” thay cho “God!” (Đức Chúa Trời), “Jeez” thay cho “Jesus” (Chúa
Jê su), “heck” thay cho “hell” (địa ngục, quỷ quái).
-
Jeez, I can‟t.
(Lạy chúa tôi, tôi không thể.)
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, Tr.66)
-
Oh, my Gosh, it died.
(Ôi, lạy Chúa tôi, nó chết rồi.)
-
What the heck are you talking about?
(Mày đang nói cái quái gì vậy?)
(Khẩu ngữ)
37
Các điệp khúc này hoàn toàn có ý nghĩa, chức năng, vị trí tương đương
với các biểu thức chêm xen tình thái. Chúng chỉ khác các biểu thức chêm xen
tình thái ở mặt ngữ âm và hình thức từ vựng mà thôi. Ở một phương diện nào
đó, hoàn toàn có thể coi chúng là một dạng đặc biệt của các biểu thức chêm
xen tình thái.
2. Cấu tạo của biểu thức chêm xen tình thái.
Một phát ngôn trong tiếng Anh, tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ
khác thường gồm các đơn vị lớn hơn được tạo thành từ các đơn vị nhỏ hơn.
Những đơn vị nhỏ hơn lại được tạo thành bởi các đơn vị nhỏ hơn nữa. Mỗi
đơn vị có thể coi là một thành tố. Như vậy, ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ
viết đều được cấu tạo từ các thành tố. Các thành tố đơn lẻ kết hợp với nhau
theo các tầng bậc tạo thành cấu trúc thành tố. Cấu trúc thành tố lớn nhất trong
một phát ngôn sẽ là một câu (theo ngữ pháp truyền thống), rồi tiếp sau câu là
cụm từ (hay đoản ngữ) và từ. Nễu xét theo cấu trúc kiểu quan hệ bộ phận –
tổng thể tầng bậc thì mỗi câu bao gồm một hay nhiều đoản ngữ và từ, mỗi
đoản ngữ là sự kết hợp của hai hay nhiều từ, mỗi từ lại được kết hợp từ một
hay nhiều hơn một hình vị. Một từ có thể chỉ có một hình vị như mạo từ “a”
(có nghĩa là một) trong tiếng Anh. Tuy nhiên, các mạo từ “a”, “an” và “the”
trong tiếng Anh luôn tồn tại trong một tổ hợp danh từ hay tổ hợp đại từ để
biểu thị tính xác định của các danh từ hoặc đại từ đó chứ các mạo từ trong
tiếng Anh không thể đứng độc lập đơn lẻ trong phát ngôn. Do đó, trong luận
văn này, vì mục đích thực tiễn, một tổ hợp gồm một mạo từ và danh từ hay
đại từ sẽ được chúng tôi tạm coi là một danh từ đơn.
Dựa trên quan điểm đó, qua thống kê và phân tích các biểu thức chêm
xen tình thái, chúng tôi thấy cấu tạo của các biểu thức chêm xen tình thái
trong tiếng Anh rất đa dạng và phong phú. Chúng cũng tồn tại ở cả dạng từ
đơn và cụm từ (đoản ngữ). Sau đây là miêu tả của chúng tôi:
38
a. Biểu thức chêm xen tình thái là một từ.
Số lượng biểu thức chêm xen tình thái tồn tại dưới dạng từ đơn mang
nghĩa biểu hiện xuất hiện khá nhiều trong tiếng Anh. Tuy sự đa dạng về loại
từ thì không phong phú nhưng tần số xuất hiện thì lại rất cao.
Tất cả các biểu thức chêm xen dưới dạng từ đơn đều có nghĩa biểu hiện
ban đầu, tuy nhiên khi giữ vai trò là những thành phần chêm xen tình thái
trong phát ngôn chúng không còn giữ được ý nghĩa ban đầu của chúng. Các từ
chêm xen này thường đứng độc lập đứng trong câu và không có mối liên hệ
ngữ pháp với các thành phần khác của câu. Xét về mặt từ loại, chúng có thể là
danh từ, động từ, tính từ và cả phó từ.
a. 1. Biểu thức chêm xen tình thái là danh từ.
Mặt từ loại của danh từ chêm xen tình thái vẫn được giữ nguyên như
cấu tạo từ loại ban đầu của chúng. Khi các danh từ chêm xen tình thái đứng
độc lập với các thành phần khác trong câu thì dù ở vị trí nào chúng vẫn được
coi là một danh từ.
(4a) Hell, no. He hated her guts.
(Đời nào. Ông ta căm ghét sự gan góc của nữ bác sĩ này.) (PHTdịch
KCGMM, tr. 16)
(Sidney Sheldon, Nothing lasts forever, Tr. 7)
(4b) Hell, I won‟t even drink myself tonight.
(Mẹ kiếp, tối nay tao sẽ không cho phép mình uống rượu dù chỉ một
giọt.)
(Mario Puzo, The Godfather, Tr. 189)
(4c) Jesus, kid, you had us worried.
(Chà, bố khỉ, cả nhà đang lo sốt vó cho mày đấy.) (THN & ĐTH dịch
Bố Già, tr. 123)
(Mario Puzo, The Godfather, Tr. 79)
39
Trong các câu (4a), (4b), (4d) thì một điều hiển nhiên là các từ chêm
xen tình thái đều tồn tại dưới dạng một danh từ đơn.
a. 2. Biểu thức chêm xen tình thái là tính từ.
Thế giới là một tổ chức tồn tại muôn vạn vật với các mối quan hệ tổng
hòa đan xen phức tạp. Mỗi sự vật hiện tượng đều có những đặc tính riêng biệt
để phân biệt chúng với những đối tượng khác trong tự nhiên. Và thường khi
nói về các đặc tính của một sự vật hiện tượng nào đó được phản ánh bởi tư
duy, con người thường sử dụng một công cụ hữu hiệu để miêu tả nó, đó là
ngôn ngữ. Tuy nhiên, ngôn ngữ cũng là một kho dụng cụ khổng lồ mà muốn
khai thác chúng con người cần phải có sự lựa chọn phù hợp cho từng đối
tượng và bối cảnh sử dụng cũng phải phù hợp để đạt đích ngôn trung. Để diễn
tả đặc điểm, tính chất của một đối tượng nào đó trong hiện thực, một trong
những phương thức phổ biến là con người thường lựa chọn những tính từ xác
đáng phù hợp đối với đối tượng. Chính vì thế tính từ rất hay được kết hợp với
danh từ hoặc đại từ để bổ trợ cho danh từ hoặc đại từ đó. Trong tiếng Anh,
tính từ thường được đặt trước danh từ giữ chức vụ một định ngữ bổ nghĩa cho
danh từ.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu các tư liệu thu thập được về các biểu thức
chêm xen tình thái trong tiếng Anh, chúng tôi thấy trong tiếng Anh tồn tại một
số lượng khá lớn các biểu thức chêm xen tình thái mà về mặt hình thức (ở đây
là vị trí và quan hệ đối đãi với từ ngữ hữu quan) giữ vai trò như một tính từ bổ
nghĩa cho danh từ. Trong các ví dụ sau đây, từ chêm xen tình thái sẽ được in
đậm, còn danh từ liên đới sẽ được in nghiêng.
(5a) Stop that fucking thing.
(Dừng cái chết tiệt đó lại. )
(Phim Silence becomes you)
40
(5b) …is that it's from another friggin' planet.
(…là chúng phát sinh từ một hành tinh chết tiệt nào đó.) (Tr. 109)
(Dan Brown, Deception point, tr. 127)
(5c) But that bastard Jack Woltz is playing me off, he won't give it to me.
(Thế mà thằng chó đẻ Uônt chơi con, không chịu giao cho con vai
đó.)(THN & ĐTH dịch, tr. 56)
(Mario Puzo, The Godfather, tr. 39)
Trong các câu (5a), (5b), (5c), các từ “fucking”, “friggin‟” và “bastard”
đều đứng trước danh từ và giữ vai trò như các tính từ. Đặc biệt, ở câu (5c) từ
“bastard” hoạt động như một tính từ chứ không phải là một danh từ nữa. Điều
này thể hiện một sự linh hoạt trong ngôn ngữ. Trên thực tế thì ngôn ngữ
không hoạt động theo những khuôn mẫu cứng nhắc nào đó mà nó có khả năng
biến hóa linh hoạt trong các trường hợp khác nhau , nhằm đáp ứng những nhu
cầu diễn đạt nào đó.
Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là tại sao tất cả các tính từ khác lại không
thể là biểu thức chêm xen tình thái mà các từ trong ba ví dụ vừa nêu lại được
coi là những biểu thức chêm xen tình thái? Tất nhiên, số lượng tính từ trong
hệ thống mỗi ngôn ngữ thì nhiều vô kể, nhưng không phải tất cả chúng đều có
thể được coi là tính từ chêm xen tình thái. Bởi lẽ, các tính từ thông thường
khác luôn miêu tả đúng thực chất sự vật hiện tượng hoặc gần đúng như vậy
theo đánh giá chủ quan của người nói. Thế nhưng, những từ được xét trong
ba ví dụ vừa nêu đều là những đánh giá bất thường về tính chất hay phẩm chất
của các sự vật được đề cập đến. Chúng không hề phản ánh thực chất hiện
tượng khách quan mà chỉ duy nhất phản ánh thái độ chủ quan của người nói.
Chính vì thề mà các từ “fucking”, “friggin’”, “bastard” trong ba câu (5a), (5b)
và (5c) đều được coi là các từ chêm xen tình thái, thuộc hệ thống các biểu
thức chêm xen tình thái.
41
a. 3. Biểu thức chêm xen tình thái là phó từ.
Các biểu thức chêm xen tình thái còn tồn tại rất phổ biến ở dạng phó từ.
Phó từ trong tiếng Anh thường đi kèm với động từ, tính từ hoặc với một phó
từ khác để bổ trợ cho động từ, tính từ hay phó từ đó. Các phó từ thường biểu
thị ý nghĩa về mức độ hay tần xuất. Khi các biểu thức chêm xen tình thái giữ
vai trò là phó từ thì chúng thường được kết hợp với một tính từ hay phó từ
khác nhằm nhấn mạnh thêm cho tính từ hoặc phó từ ấy. Nó có thể kết hợp với
cả tính từ hay phó từ mang sắc thái tích cực và tiêu cực. Trong các ví dụ sau,
phó từ chêm xen tình thái được in đậm, còn các thành phần khác mà chúng
phụ trợ sẽ được in nghiêng.
(6a) It's damned late.
(Muộn chết cha rồi.)
(Gramham Greene, The Quiet American, tr. 61)
(6b) Are you fucking kidding us?
(Bọn chúng mày giỡn mặt với chúng tao đấy hả?)
(Phim Adams Aebler)
(6c) I know damn well what to do.
(Tao thừa biết là tao cần phải làm gì.)
(James Thayer, Force 12, tr. 558)
Trong trường hợp “damn” khi đứng độc lập trong câu thì rất khó xác
định xem nó thuộc loại từ loại nào. Bởi lẽ, “damn” vừa có thể là động từ, vừa
có thể là danh từ. Loại trừ trường hợp khi “damn” đi với một đại từ nhân
xưng, một danh từ hay cụm danh từ thì nó hiển nhiên là thuộc động từ. Khi
“hell” là danh từ có thể đứng như một bộ phận độc lập trong câu thì “damn”
cũng có thể là một danh từ bởi lẽ “damn” và “hell” trong cùng hoàn cảnh có
42
thể thay thế cho nhau. Tuy nhiên, chúng tôi chưa tìm được một chứng cứ xác
đáng nào để khẳng định rằng trong những trường hợp này “damn” là một
danh từ hay động từ.
(7a) Damn, you're cold.
(Khỉ thật, người mày lạnh toát rồi.)
(Greg Iles, 24 Hours, tr. 216)
(7b) Come on, damn you.
(Tiếp tục đi, đồ chết tiệt.)
(James Thayer, Force 12, tr. 561)
Rõ ràng rằng trong câu (7a) “damn” hoàn toàn có thể được thay thế
bằng “hell” mà ý nghĩa sắc thái của phát ngôn không hề thay đổi. Thế nhưng,
“damn you” ở câu (7b) lại không thể thay thế được bằng “hell you” bởi lẽ
“hell” không phải là động từ. “damn you” ở câu (7b) chỉ có thể thay thế được
bằng cụm từ “fuck you”. Tuy nhiên, xét về mức độ thô tục thì “fuck you” bị
coi là thô tục hơn rất nhiều so với “damn you”.
Biểu thức chêm xen tình thái không chỉ tồn tại dưới dạng từ mà các từ
chêm xen còn được kết hợp với các đơn vị khác tạo thành tổ hợp từ. Trong
đó, nhiều tổ hợp từ khá ổn định về mặt cấu trúc và được lấy ra sử dụng như
một đơn vị từ có sẵn.
b. Biểu thức chêm xen tình thái là cụm từ.
Trong ngôn ngữ, câu là một cấu trúc tổng thể thống nhất được kết hợp
từ các thành tố nhỏ hơn đến các thành tố lớn hơn. Câu tiếng Anh cũng không
nằm ngoài qui luật chung này. Trong cấu trúc câu thì các từ đóng vai trò là
một trong những nền tảng vô cùng quan trọng cấu tạo nên câu. Tuy nhiên, các
từ trong câu còn được xây dựng, kết hợp với nhau trên cơ sở của một mối
quan hệ lôgic nhất định tạo thành một tổ hợp từ (word complex) và ở một số
43