Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 180 trang )
thực tế, nhiều khi hình thức ngôn ngữ này không được coi là ngôn ngữ mà
chúng chỉ là thứ ngôn ngữ nguyên sơ (protolanguage) như: Wow, oh, gee,
whew, alas, oops, hurrah, ugh…Các từ này thường có vị trí ở đầu câu và cuối
câu hoặc đứng độc lập một mình dưới dạng một phát ngôn đặc biệt.
-
Ouch, that hurt!
(Ui da, đau quá!)
(http://www.arts.uottawa.ca/writcent/hypergrammar/interjct.html)
-
Yuck, I stepped in dog shit!
(Khiếp quá, tôi đã giẫm phải phân chó!)
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, Tr.115)
-
Gee, I really can‟t.
(Trời, mình thực sự không thể.)
(Jack C. Richards, Listen for it, tr.59)
-
Arg! We can‟t go fishing.
(Ối! Chúng ta không thể đi câu được.)
-
Eep! I was feeling a little hungry.
(Không! Tôi cảm thấy hơi đói bụng.)
-
Yikes! Is he going to raise our rent?
(Ối, trời ơi! Ông ấy sắp tăng tiền thuê nhà của chúng ta à?)
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, Tr.80)
-
He has a new car, eh?
(Hắn có một cái xe mới, hả?)
(Khẩu ngữ)
34
Thứ ngôn ngữ nguyên sơ này thường được các nhà ngôn ngữ học gọi là
các thán từ tình thái. Chúng thường được thốt lên khi chủ thể phát ngôn cảm
thấy kinh ngạc, hay khi gặp sự việc phiền phức, phải chứng kiến những cảnh
không ngờ tới hay khi nghi hoặc trước một sự việc hiện tượng nào đó ở thế
giới quanh họ. Nói cách khác là chúng chỉ diễn đạt những phản ứng tâm sinh
lí của con người mà không mang nghĩa biểu hiện hay nghĩa miêu tả.
Những thán từ tình thái này bị hạn chế về mặt cấu tạo, vị trí cũng như
ý nghĩa, chức năng của chúng trong giao tiếp so với các biểu thức chêm xen
tình thái như “the hell” (địa ngục), “the devil” (ma quái), “damn” (nguyền
rủa)… Các biểu thức chêm xen tình thái được cấu tạo từ những từ có nghĩa
gốc đầy đủ, đa dạng về cấu trúc, vị trí và ý nghĩa trong phát ngôn. Chúng có
thể tồn tại dưới dạng từ như “hell” (mẹ kiếp) hoặc dạng ngữ như “son of a
bitch” (đồ con hoang, đồ chó chết). Không những phong phú về mặt cấu tạo
mà chúng còn đa dạng cả về mặt vị trí và chức năng trong câu. Chúng có thể
đứng đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Các biểu thức chêm xen tình thái
không chỉ đơn thuần biểu thị sự ngạc nhiên, nghi hoặc, bực bội mà chúng còn
nhiều chức năng khác như chức năng nhấn mạnh, đánh giá biểu cảm, đánh giá
chủ quan của chủ thể phát ngôn trước một hiện thực nào đó và đôi khi còn
tham gia biểu thị mục đích phát ngôn. Những đặc điểm này không có ở những
thán từ tình thái. Đặc biệt là thán từ tình thái không chứa đựng đánh giá chủ
quan của chủ ngôn mà chỉ là phản ứng tâm sinh lý của con người. Hơn nữa,
trong khi các thán từ không phải là những từ ngữ mang ý nghĩa miêu tả thì
các biểu thức chêm xen tình thái đều có nguồn gốc từ những từ ngữ có nghĩa
miêu tả. Khi các biểu thức chêm xen tình thái được chêm xen vào phát ngôn,
chúng bị mất đi ý nghĩa miêu tả của mình và thay vào đó là một ý nghĩa tình
thái. Còn các thán từ thì không có sự thay đổi về ý nghĩa (từ nghĩa miêu tả
chuyển sang nghĩa tình thái) vì bản thân chúng không hề có nghĩa miêu tả.
35
-
Hell, who needs a job?
(Mẹ kiếp, ai cần việc chứ?)
(James Thayer, Force 12, tr.542)
-
Where the devil is Glick?
(Glick đang ở chỗ quái quỉ nào không biết nữa?)
(Don Brown, Angles and Demons, tr. 341)
-
I'm going to sue you, you dirty son of a bitch.
(Đồ chó, tao sẽ đưa mày ra tòa.) (PHT dịch KCGMM, tr. 90)
(Sidney Sheldon, Nothing lasts forever, tr. 64)
Ngoài ra, trong khẩu ngữ tiếng Anh còn tồn tại những biệt tố tình thái
được hình thành từ những từ thông thường được nói luyến vì một lý do tôn
giáo hay tín ngưỡng nào đó. Những từ được nói luyến này được gọi là những
từ điệp khúc. Loại từ điệp khúc này là những từ ngữ chêm xen được chỉnh sửa
chút ít về mặt ngữ âm để giảm mức độ thô tục hoặc tránh nói trực tiếp (vì cấm
kỵ hoặc mang tính tôn giáo). Chúng đều bắt nguồn từ những từ gốc có nghĩa
miêu tả và có cấu tạo vỏ âm thanh khá gần với từ gốc. Chẳng hạn từ “shit”
(phân) được chuyển thành “shoot” hoặc “shaatz” như trong:
-
Shaatz! Look at those cool shoes.
(Tuyệt thật! Hãy nhìn đôi giày xinh đẹp kia kìa.)
-
Shoot, get out of my side!
(Mẹ kiếp, biến khỏi mắt tao ngay!)
(Khẩu ngữ)
36
Hoặc “fricking”, “frigging” thay cho “fucking”(chết tiệt, mẹ kiếp) vì
bản thân từ “fuck” là một từ dùng để chỉ sự giao cấu, bị coi là rất tục tĩu trong
tiếng Anh.
-
She‟s fricking hot.
(Con bé thật là ngon. )
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, tr. 195)
-
Jesus Christ, Mike! We‟re at the frigging North Pole and you still
manage to meet gorgeous women.
(Lạy chúa tôi, Mike! Ở tận cực Bắc khỉ ho cò gáy này mà anh vẫn kiếm
được những cô gái chân dài.) (PHT dịch KCGMM, tr. 95)
(Dan Brown, Deception point, tr. 110)
Ngôn ngữ điệp khúc trong những từ ngữ mang tính tôn giáo cũng được
dùng rất nhiều trong khẩu ngữ. Bởi lẽ tôn giáo là rất đa dạng và nhiều người
nhạy cảm với những lời nói mang tính chất tôn giáo. Đó là lí do họ đã dùng
biện pháp điệp khúc từ để tránh xúc phạm đến tôn giáo của họ. Chẳng hạn
như “gosh” thay cho “God!” (Đức Chúa Trời), “Jeez” thay cho “Jesus” (Chúa
Jê su), “heck” thay cho “hell” (địa ngục, quỷ quái).
-
Jeez, I can‟t.
(Lạy chúa tôi, tôi không thể.)
(Lê Huy Lâm biên dịch, SDTLTGT, Tr.66)
-
Oh, my Gosh, it died.
(Ôi, lạy Chúa tôi, nó chết rồi.)
-
What the heck are you talking about?
(Mày đang nói cái quái gì vậy?)
(Khẩu ngữ)
37
Các điệp khúc này hoàn toàn có ý nghĩa, chức năng, vị trí tương đương
với các biểu thức chêm xen tình thái. Chúng chỉ khác các biểu thức chêm xen
tình thái ở mặt ngữ âm và hình thức từ vựng mà thôi. Ở một phương diện nào
đó, hoàn toàn có thể coi chúng là một dạng đặc biệt của các biểu thức chêm
xen tình thái.
2. Cấu tạo của biểu thức chêm xen tình thái.
Một phát ngôn trong tiếng Anh, tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ
khác thường gồm các đơn vị lớn hơn được tạo thành từ các đơn vị nhỏ hơn.
Những đơn vị nhỏ hơn lại được tạo thành bởi các đơn vị nhỏ hơn nữa. Mỗi
đơn vị có thể coi là một thành tố. Như vậy, ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ
viết đều được cấu tạo từ các thành tố. Các thành tố đơn lẻ kết hợp với nhau
theo các tầng bậc tạo thành cấu trúc thành tố. Cấu trúc thành tố lớn nhất trong
một phát ngôn sẽ là một câu (theo ngữ pháp truyền thống), rồi tiếp sau câu là
cụm từ (hay đoản ngữ) và từ. Nễu xét theo cấu trúc kiểu quan hệ bộ phận –
tổng thể tầng bậc thì mỗi câu bao gồm một hay nhiều đoản ngữ và từ, mỗi
đoản ngữ là sự kết hợp của hai hay nhiều từ, mỗi từ lại được kết hợp từ một
hay nhiều hơn một hình vị. Một từ có thể chỉ có một hình vị như mạo từ “a”
(có nghĩa là một) trong tiếng Anh. Tuy nhiên, các mạo từ “a”, “an” và “the”
trong tiếng Anh luôn tồn tại trong một tổ hợp danh từ hay tổ hợp đại từ để
biểu thị tính xác định của các danh từ hoặc đại từ đó chứ các mạo từ trong
tiếng Anh không thể đứng độc lập đơn lẻ trong phát ngôn. Do đó, trong luận
văn này, vì mục đích thực tiễn, một tổ hợp gồm một mạo từ và danh từ hay
đại từ sẽ được chúng tôi tạm coi là một danh từ đơn.
Dựa trên quan điểm đó, qua thống kê và phân tích các biểu thức chêm
xen tình thái, chúng tôi thấy cấu tạo của các biểu thức chêm xen tình thái
trong tiếng Anh rất đa dạng và phong phú. Chúng cũng tồn tại ở cả dạng từ
đơn và cụm từ (đoản ngữ). Sau đây là miêu tả của chúng tôi:
38
a. Biểu thức chêm xen tình thái là một từ.
Số lượng biểu thức chêm xen tình thái tồn tại dưới dạng từ đơn mang
nghĩa biểu hiện xuất hiện khá nhiều trong tiếng Anh. Tuy sự đa dạng về loại
từ thì không phong phú nhưng tần số xuất hiện thì lại rất cao.
Tất cả các biểu thức chêm xen dưới dạng từ đơn đều có nghĩa biểu hiện
ban đầu, tuy nhiên khi giữ vai trò là những thành phần chêm xen tình thái
trong phát ngôn chúng không còn giữ được ý nghĩa ban đầu của chúng. Các từ
chêm xen này thường đứng độc lập đứng trong câu và không có mối liên hệ
ngữ pháp với các thành phần khác của câu. Xét về mặt từ loại, chúng có thể là
danh từ, động từ, tính từ và cả phó từ.
a. 1. Biểu thức chêm xen tình thái là danh từ.
Mặt từ loại của danh từ chêm xen tình thái vẫn được giữ nguyên như
cấu tạo từ loại ban đầu của chúng. Khi các danh từ chêm xen tình thái đứng
độc lập với các thành phần khác trong câu thì dù ở vị trí nào chúng vẫn được
coi là một danh từ.
(4a) Hell, no. He hated her guts.
(Đời nào. Ông ta căm ghét sự gan góc của nữ bác sĩ này.) (PHTdịch
KCGMM, tr. 16)
(Sidney Sheldon, Nothing lasts forever, Tr. 7)
(4b) Hell, I won‟t even drink myself tonight.
(Mẹ kiếp, tối nay tao sẽ không cho phép mình uống rượu dù chỉ một
giọt.)
(Mario Puzo, The Godfather, Tr. 189)
(4c) Jesus, kid, you had us worried.
(Chà, bố khỉ, cả nhà đang lo sốt vó cho mày đấy.) (THN & ĐTH dịch
Bố Già, tr. 123)
(Mario Puzo, The Godfather, Tr. 79)
39