Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.56 MB, 115 trang )
j£i Ghi QUuí Tôea
2. Chính sách cạnh t r a n h và các yêu t ố có liên quan
2.1. Chính sách cạnh tranh
N h ư trên đã đề cập, cạnh tranh khi phát triển một cách tự do thì tất yếu sẽ
dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, các hành v i hạn chế cạnh tranh và hơn nữa
là độc quyền. Tất cả những hành v i này đều không có lợi cho sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân, và trước hết là tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng. Nhà
nước k h i đó sẽ có nhiệm vẹ đề ra các biện pháp điều tiết m ọ i hoạt động cạnh
tranh nhằm bảo vệ cạnh tranh, tạo ra một môi trường cạnh tranh tích cực, lành
mạnh, đảm bảo cho m ọ i chủ thể trong nền kinh tế đểu thu được những lợi ích vốn
có do cạnh tranh mang lại. Tổng thể những biện pháp đó chính là chính sách
cạnh tranh. Theo nghĩa rộng, có thể xem chính sách cạnh tranh là tất cả các
biện pháp tạo dựng môi trường cạnh tranh kinh tế chung nhằm duy trì tăng
trưởng bền vững '. Theo nghĩa hẹp dưới góc độ xây dựng và hoàn thiện khung
pháp luật, chính sách cạnh tranh bao gồm phạm vi mức độ xử lý các vấn đề liên
quan đến cấu trúc thị trường, quan hệ ứng xử của các thành viên trên thị trường
và kết quả đạt được trên thị trường. Theo quan điểm tổng hợp, chính sách cạnh
tranh là tập hợp các biện pháp của Nhà nước nhằm bảo vệ và thúc đẩy cạnh
tranh.
Cần phân biệt chính sách cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh. Chiến lược
cạnh tranh là tổng hợp các biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của D N so
với các D N khác hoặc của cả nền kinh tế so với các nền kinh tế khác. Còn chính
sách cạnh tranh là việc tạo môi trường nhằm bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh
(với nghĩa là cạnh tranh lành mạnh) trong nền kinh tế. Mẹc đích của chính sách
cạnh tranh không phải là trực tiếp can thiệp vào hoạt động cạnh tranh, m à là bảo
vệ sự cạnh tranh công bằng và hạn chế hoặc chế tài các hành v i cạnh tranh không
chính đáng, từ đó tạo điều kiện khách quan thuận l ợ i cho cạnh tranh công bằng.
2.2. Chính sách cạnh tranh và Pháp luật cạnh tranh
M ộ t bộ phận quan trọng và cẩn thiết của chính sách cạnh tranh là pháp
luật về cạnh tranh, trong đó có thể có hoặc chưa có khung phấp luật về cạnh
1
Phạm Duy Nghĩa- "Về pháp luật cạnh tranh và chống độc quyền", Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/1999, tr.24-25
14
JBi ĩĩhị Olhư 76ea
tranh. Có thể hiểu khung pháp luật về cạnh tranh là tổng thể những quy phạm
pháp luật của nhà nước tác động lèn hoạt động cạnh tranh hoặc điều chỉnh các
quan hệ trong hoạt động cạnh tranh của các D N trên thị trường '
.
Pháp luật cạnh tranh là sự thể chế hoa chính sách cạnh tranh của Nhà
nước. Mục đích của pháp luật về cạnh tranh là tạo ra một sân chơi chung cho
hoạt động cạnh tranh, nghĩa là để quá trình tranh đua giữa các D N diễn ra theo
một quy tọc nhất định. Trong cơ chế thị trường, để các chủ thể được tự do và
sáng tạo không thể không có luật chơi cụ thể cho mọi thành viên trong mọi hoàn
cảnh, nhưng luật pháp lại phải cụ thể, nên pháp luật về cạnh tranh chỉ có thể xác
định ra giới hạn cho hoạt động của các chủ thể trong cạnh tranh, tức là quy định
ra những hành v i không được tiến hành trong cạnh tranh. Vì vậy, tiếp cận từ mặt
trái của những hành v i cạnh tranh và xác định không triệt để về mặt nội dung là
đặc điểm căn bản của pháp luật về cạnh tranh, khác với những lĩnh vực pháp luật
khác như luật công ty hay luật hình sự.
Pháp luật về cạnh tranh bao gồm hai lĩnh vực chủ yếu: pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh. Tính không
lành mạnh của hành v i cạnh tranh lệ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị
trường và được điều chỉnh bằng phương pháp của luật tư, tức là nếu người bị ảnh
hường, bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại chưa đưa ra sự phản đối và khiếu
kiện thì pháp luật và toa án chưa thể can thiệp. Còn đối với hành v i hạn chế cạnh
tranh, khi bị phát hiện thì đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Trong k h i pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh nhằm vào từng hành v i , từng quan hệ
của một chủ thể thì pháp luật chống hạn chế cạnh tranh lại nhằm vào hiện tượng
làm thay đổi cơ cấu thị trường.
2.3. Những cơ sở cho việc hoạch định một chính sách cạnh tranh
M ỗ i nước k h i xác định chính sách cạnh tranh đều có chỗ dựa lý luận và
thực tiễn của họ. Lý luận cạnh tranh cung cấp m ô hình lý luận để đề ra chính
sách cạnh tranh. Tuy vậy, chính sách cạnh tranh trong hiện thực bao giờ cũng là
kết quả thoa hiệp, nó không lấy một m ô hình lý luận cạnh tranh duy nhất làm cơ
sở, m à dựa trên việc lấy một m ô hình lý luận nào đó làm chủ đạo, đồng thời tiếp
' TiịnhĐiícThào -'^ékháiniệmkhungftópluạvàkhungphápluậtkiiihtê'",TạpchíNtónưóc\àftópluạ SỔ10/I999 t 11 14
15
JBi ĩĩhị Olhư 76ea
thu chủ trương của m ô hình lý luận khác, chú ý tới yêu cầu của nhiều mục tiêu,
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. M ỗ i chính sách cạnh tranh đều phải được xây
dựng dựa trên cơ sở lý luận khoa học đáng tin cậy, có như vậy mới tránh được
hiện tượng tạm bợ trong quá trình xác định và thực thi chính sách cạnh tranh. Nói
cụ thể, việc xây dựng chính sách cạnh tranh phải tính tới ba nhân tố sau:
2.3.1. Môi trường kinh tế
Nền kinh tế thị trưồng ở những nước khác nhau có trình độ phát triển
không đồng đều và có những đặc điểm riêng biệt do điều kiện lịch sử, xã hội và
chính trị quyết định. K h i xây dựng chính sách cạnh tranh, không thể không tính
đến những đặc điểm riêng biệt đó. Chính trình độ phát triển của nền kinh tế sẽ
phản ánh trình độ phát triển của các thành viên trên thị trưồng, đồng thồi ảnh
hưởng đến thái độ, phương thức kinh doanh của họ.
Ở các nước công nghiệp phát triển, quá trình phát triển của kinh tế thị
trưồng bắt đầu từ rất sớm và hoạt động cạnh tranh trên thị trưồng những nước này
đã có bề dày hàng thế kỷ. Các thành viên trên thị trưồng đã đạt được trình độ
phát triển tiên tiến, cạnh tranh trong điều kiện đó được họ thực hiện chủ yếu
thông qua trình độ công nghệ, qua chất lượng sản phẩm dịch vụ và độc quyền đã
trở thành một xu thế phổ biến để chiếm lĩnh thị trưồng.
Trong k h i đó ở các nước đang phát triển và chuyển đổi, kinh tế thị trưồng
mới bắt đầu được hình thành, những hành v i cạnh tranh không lành mạnh diễn ra
phổ biến hơn, độc quyền mới đang trong thồi kỳ nhen nhóm. Thêm vào đó m ỗ i
quốc gia lại có một mục tiêu kinh tế riêng, trong đó có những ngành được Nhà
nước khuyến khích cạnh tranh, ngược lại có những ngành lại cần thiết phải được
bảo hộ, do Nhà nước độc quyền nắm giữ. Do đó trọng tâm điều tiết của chính
sách cạnh tranh cũng phải được xác định cho phù hợp. N h ư vậy yếu tố kinh tế có
tác động không nhỏ đến việc hoạch định chính sách cạnh tranh của một quốc gia.
Chính phủ các nước phải chú ý đến những đặc điểm riêng của từng nền kinh tế
để phát hiện cho đúng lĩnh vực chính cấn điều chỉnh của chính sách cạnh tranh
và xác đinh mức độ và phạm v i điều chỉnh cho phù hợp để đảm bảo chính sách
cạnh tranh thực sự là một bộ phận của chính sách kinh tế vĩ mô. Thêm vào đó,
16
Mi- QhỊ (Khư -Xoa
di f4-X40
việc xây dựng chính sách cạnh tranh là một quá trình, nó sẽ được dần hoàn thiện
cho phù hợp với từng bước phát triển của nền kinh tế quốc gia.
2.3.2. Môi trường xã hội
M ộ t trong những nhân tố xã hội có ảnh hưởng đến việc xây dựng chính
sách cạnh tranh là nhận thức về cạnh tranh và mức độ chồp nhận cạnh tranh cùa
xã hội. Tuy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và đặc điểm chính trị của từng
quốc gia m à yếu tố này trở nên không đồng nhồt. Đ ố i với những nước trước kia
có nền kinh tế bao cồp thì nhận thức về kinh tế thị trường và cạnh tranh còn khá
mới mẻ. Ngay cả k h i nền kinh tế quốc gia đã chồp nhận cơ chế thị trường, không
phải mọi thành viên trong xã hội đều ủng hộ cạnh tranh, ở một số nước, do tư
duy nhồn mạnh vai trò quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước và lo sợ những
khía cạnh tiêu cực của kinh tế thị trường nên việc tiếp cận thúc đẩy cạnh tranh
diễn ra một cách dè dặt. Nhiều DN, nhồt là các công ty lớn đang được hưởng l ợ i
từ bảo hộ, bảo trợ và vị t í chi phối trên thị trường, không muốn tăng cường cạnh
r
tranh trong nền kinh tế. Thái độ, quan điểm, hệ tư tưởng của giai cồp thống trị có
ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định nội dung của các chính sách kinh tế vĩ
m ô nói chung và của chính sách cạnh tranh nóiriêng.M ộ t bộ phân vô cùng quan
trọng của chính sách cạnh tranh là Pháp luật cạnh tranh, đây chính là điểm thể
hiện rõ thái độ của giai cồp thống trị đối vối thị trường và đối với cạnh tranh. Ý
thức chồp hành luật pháp của các thành viên trong xã hội cũng là một nhân tố xã
hội có ảnh hưởng đến chính sách cạnh tranh. Ý thức pháp luật tốt là đảm bảo
quan trọng để xây dựng và thực thi một cách có hiệu quả chính sách cạnh tranh.
Ý thức pháp luật là sản phẩm của điều kiện lịch sử nhồt định. Sự hình thành ý
thức pháp luật không những do trình độ của lực lượng sản xuồt và tính chồt xã
hội của quan hệ sản xuồt quyết định, m à còn phụ thuộc vào tác động tổng hợp
của tập quán xã hội, tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoa và hoàn cảnh địa lý.
Cạnh tranh là một quá trình kinh tế, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của xã hội. Do đó cạnh tranh cũng đồng thời là một quá trình xã hội. K h i
thực hiện nền kinh tế thị trường, k h i cải cách và ^huyển-đổi-thể chế kinh tế thị
Ị T H Ú V.Ễ-H Ị
trường, xây dựng chính sách cạnh tranh, phải tiến hành- đồng thời việc tăng
.
.
.
hí.OA. rMuụ:.õ
cương điêu tiết kết quá phàn phôi thị trường với! quá-trình phát triển xã hôi có
»ffl?r ị
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
liên quan. Việc tăng cường sự điều tiết của chính phủ đối với kết quả phân phối
thị trường và quá trình phát triển xã hội không chỉ là đòi hỏi của công cuộc cải
cách sâu sắc hơn, của sự phát triển kinh tế m à còn là đòi hỏi của việc duy t ì sự
r
ổn định xã hội, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
2.3.3. Các quy tắc, luật lệ quốc tê
Ngày nay mỗi một quốc gia không thể phát triển nếu đững tách biệt với
hoạt động chung của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đang tổn tại và phát triển
trong một chuỗi mắt xích trong đó các nền kinh tế gắn kế với nhau, tương tác
t
lẫn nhau trong khuôn khổ những quy tắc và luật lệ chung. Bất cữ một quốc gia
nào khi xây dựng các chính sách kinh tế vĩ m ô của mình cũng phải xem xét kỹ
những quy tắc, thông lệ quốc tế và chính sách kinh tế của các quốc gia khác. Có
như vậy mới đảm bảo chính sách quốc gia không đi ngược, mâu thuẫn với những
quy định chung và mâu thuẫn với chính sách của cấc quốc gia khác, nhất là các
nước đối tác. Điều này là cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội toàn diện và
ổn định của quốc gia đổng thời đảm bảo duy t ì mối quan hệ tốt đẹp với các quốc
r
gia khác trên thếgiới nhất là trong bối cảnh hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay.
t
Cụ thể là, cấc quốc gia trước hế phải căn cữ vào thực trạng kinh tế xã hội,
căn cữ vào mục tiêu kinh tế xã hội của mình, để xác định trọng tâm xây dựng
chính sách cạnh tranh. Đồng thời, các quốc gia cũng phải xác định rõ những đối
tác kinh tế quan trọng và tìm hiểu về những quy định, luật lệ về cạnh tranh của
những nước đó, lấy đó làm cơ sở để xây dựng chính sách cạnh tranh sao cho
t
tương thích. M ộ t trong những xu thế phổ biến hiện nay của liên kế kinh tế quốc
tế là việc các quốc gia tham gia vào các tổ chữc khu vực và quốc tế. Do đó một
trong những điểm lưu ý khi xây dựng chính sách cạnh tranh đó là chính sách
cạnh tranh quốc gia phải phù hợp với tinh thẩn của các quy định của các tổ chữc
m à quốc gia đó là thành viên hoặc mong muốn trờ thành thành viên trong tương
lai. WTO
là một tổ chữc quốc tế lớn vào bậc nhất thế giới, mục đích hoạt động
của WTO
là thúc đẩy tự do hoa thương mại giữa các nước thành viên, tạo một
môi trường kinh doanh tự do, thông thoáng và lành mạnh. Hầu hết các quốc gia
trên thế giới hiện nay đều mong muốn trở thành thành viên của tổ chữc này.
18
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
Trong WTO
di t4-X4tyD-x&fìig
cũng có nhiều quy định liên quan đến cạnh tranh '. Vì vậy những
nước là thành viên hoặc mong muốn trở thành thành viên của tổ chức này phải
chú ý tìm hiểu các quy định về cạnh tranh của WTO
để căn cứ vào đó xây dựng
một chính sách cạnh tranh cho phù hợp.
3. Khái quát về chính sách cạnh t r a n h trên thê giới
Do yêu cỉu của phát triển kinh tế và nhận thức được tỉm quan trọng của
việc điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong nền kinh tế, nhiều nước trên thế giới,
kể cả những nước có nền kinh tế thị trường phát triển và các nước đang phát triển
và chuyển đổi, đã sớm xây dựng cho mình một chính sách cạnh tranh. M ộ t bộ
phận không thể thiếu của chính sách cạnh tranh là pháp luật về cạnh tranh trong
đó đưa ra những quy định về các hoạt động liên quan đến cạnh tranh. Việc
nghiên cứu những quy định này là rất hữu ích trong quá trình xây dựng chính
sách cạnh tranh quốc gia.
Các nước công nghiệp phát triển trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh là
điểm cốt lõi của m ô hình kinh tế của mình và thể hiện chủ trương đảm bảo môi
trường cạnh tranh trong tất cả các lĩnh vực chính sách. Cỉn lưu ý là những nước
này đều có bề dày phát triển kinh tế thị trường và hoạt động cạnh tranh đã trở nén
quen thuộc và được chấp nhận rông rãi trong xã hội. Điểm nổi bật của quá trình
xây dựng chính sách cạnh tranh của các nước này là chính sách cạnh tranh được
xây dựng và hoàn thiện theo hướng đáp ứng kịp thời yêu cẩu của quá trình vận
hành thị trường và phát triển kinh tế quốc gia cũng như thương mại quốc tế và
liên kết kinh tế khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng chính sách
cạnh tranh của những nước này còn là việc liên tục cập nhật bổ sung theo thời
gian nhằm điều chỉnh kịp thời những hoạt động có liên quan đến cạnh tranh mới
phát sinh.
Nội dung của chính sách cạnh tranh của các nước này thể hiện ở pháp luật
về cạnh tranh cũng như nhiều lĩnh vực pháp luật khác. Những nước này rất chú
trọng việc xây dựng pháp luật về cạnh tranh và nhiều nước đã có pháp luật về
cạnh tranh tương đối hoàn chỉnh như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan,
1
xem Phụ lục Ì: "Quy định về cạnh tranh của tổ chức thương mại thế giới - WTO"
19
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
Phần Lan, Nauy, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Ý, úc, Nhật... . Các vãn bản pháp luật
1
cạnh tranh của các nước này nhìn chung được xây dựng khá chi tiết và sát với
thực tế cạnh tranh và độc quyền do các nước này đã trải qua quá trình phát triển
kinh tế thị trường lâu dài với đầy đủ các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh
cũng như các chiến lược hạn chế cạnh tranh của các D N trên thị trường. Các quy
định này có giá trị tham khảo rất cao về khía cạnh kỹ thuật lập pháp. Các nước
đang trong quá trình hoàn thiện chính sách cạnh tranh nói chung và pháp luật
cạnh tranh nói riêng có thể hổc tập kinh nghiệm của các nước phát triển. Tuy
nhiên trong quá trình tham khảo những kinh nghiệm đó, các nước phải căn cứ
vào yêu cầu cụ thể của nền kinh tế nước mình để vận dụng sao cho phù hợp và
đem lại hiệu quả.
Các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi được coi
là đi sau những nước phát triển về trình độ phát triển của thị trường nhưng cũng
đã sớm nhận ra vai trò động lực thúc đẩy và hiệu chỉnh các nguồn lực thị trường
của cạnh tranh lành mạnh. Trong vài thập kỷ gần đày, các nước này đã có những
bước tiến đáng kể trong việc tăng cường vai trò của các chủ thể kinh tế trong
nước và thúc đẩy cạnh tranh. Đồng thời các nước này cũng nhận ra tính cấp thiết
của việc xây dựng một chính sách cạnh tranh cho nền kinh tế nước mình. Chính
sách cạnh tranh cùng với các chính sách tư nhân hoá/phi độc quyền hoa, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi của ngươi tiêu dùng , tự do hoa thương mại
và đầu tư nước ngoài đã đựoc triển khai ờ nhiều nước đang phát triển/chuyển đổi
trong những chương trình cải cách kinh tế lớn. Giải pháp tổng thể này đảm bảo
cạnh tranh lành mạnh không chỉ giữa các D N trong nước với nhau m à cả giữa các
công ty nước ngoài với các D N trong nước, từ đó đẩy mạnh hiệu quả sản xuất và
phân phối, đồng thời bảo vệ l ợ i ích của người tiêu dùng và thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế nói chung.
Chính sách cạnh tranh cũng có vai trò đặc biệt quan trổng trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển/chuyển đổi. Việc xây dựng
một môi trường cạnh tranh đồng bộ, nhất quán, phù hợp với thông lệ quốc tế
1
X e m phụ lục 2: " M ộ t s ố nước trên thế giới đã ban hành luật cạnh tranh"
20
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
cùng với quá trình bãi bỏ các rào cản trong thương mại hàng hoa, dịch vụ chính
là cơ sở cho hợp tác kinh tế giữa các nước này cũng như với các nước phát triển.
Trong quá trình xây dựng chính sách cạnh tranh, các nước đang phát
triển/chuyển đổi cũng rất chú trọng việc xây dựng pháp luật về cạnh tranh. Việc
đảm bảo mầt môi trường cạnh tranh lành mạnh , khuyến khích các hoạt đầng
kinh tế thông qua hệ thống pháp luật về cạnh tranh rõ ràng, đầy đủ là mầt hướng
đi được nhiều nước đang phát triển /chuyển đổi lựa chọn. Nhiều nước đã ban
hành các vãn bản phấp luật về cạnh tranh và chống đầc quyền như Thái Lan,
Trung Quốc, Mê-hi-cô, Bra-xin, Nam Phi, Ấn Đ ầ , Ác-hen-ti-na, Cô-lôm-bi-a, Pe
ru, Ba-lan, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, Séc, U-crai-na...đổng thời thành lập cơ quan
quản lý cạnh tranh của mình.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách cạnh tranh của các nước đang
phát triển và chuyển đổi có nhiều điểm để Việt Nam tham khảo. Trong khuôn
khổ của luận văn người viết xin trình bày mầt số kinh nghiệm xây dựng chính
sách cạnh tranh của Trung Quốc mầt nước có khá nhiều điểm tương đổng về
kinh tế xã hầi với Việt Nam.
21
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
CHƯƠNG li
C H Í N H S Á C H CẠNH TRANH CỦA TRUNG QUỐC
Trong những năm gần đây, Trung Quốc nổi lên như một nền kinh tế năng
động và có tốc độ phát triển kinh tế cao nhít thếgiới. Đây là thành quả to lớn của
công cuộc cải cách kinh tế , với sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
X H C N và việc đưa cơ chế cừnh tranh vào nền kinh tế. Sau 25 năm cải cách và m ở
cửa, kinh tế Trung Quốc đã có bước phát triển to lớn: GDP tăng 20,5 lần từ 568
900 triệu N D T năm 1978 lên l i 669 400 triệu N D T năm 2003. Mức tăng GDP
trung bình trong 25 năm (từ 1978) đừt 9,4%/nãm, có những năm đừt hơn 1 0 % '
.
n
Từ năm 2000 đế nay, kinh tế Trung Quốc luôn giữ mức tăng trưởng GDP
từ 1% đến 9 % một năm, giá trị xuất khẩu đừt 6 % tổng giá trị xuất khẩu của toàn
thế giới. Đ ầ u tư đừt mức 4 5 % trong tổng thu nhập quốc dân của Trung Quốc.
Đây là mức cao nhất trên thế giới. Cuối năm 2001 Trung Quốc trở thành thành
viên của WTO, nền kinh tế nước này vẫn giữ được thế tăng trường cao và ổn
định. Mức tăng GDP có xu hướng tăng dần, năm sau cao hơn năm trước. Sự
chuyển mình của nền kinh tế được biểu hiện trên nhiều mặt, phừm v i mở cửa
rộng hơn và hội nhập quốc tế nhanh hơn.
Sản xuất nông nghiệp tăng 2,9% trong năm 2002, dịch vụ tăng 7,3%. Công
nghiệp tăng 17,3% trong năm 2003. Đầu tư nước ngoài trong năm 2002 đừt 52,7
tỷ USD. Hoừt động ngoừi thương cũng tăng trưởng nhanh, k i m ngừch X N K năm
2003 táng 29%, cao hơn so với mức tăng 21,8% năm 2002.
Đây thực sự là những con số biết nói, thể hiện sức đi lên mừnh mẽ và vị
thế của nền kinh tế Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới. Thành tựu kinh tế lớn
nhất m à Trung Quốc đừt được đó là việc đất nưđc này đã bước đầu thành công
trong việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường XHCN.
Lý luận về cừnh tranh đã khẳng định khi kinh tế thị trưởng càng phát triển
đẩy đủ, mừnh mẽ thì những vấn đề của cừnh tranh cũng nảy sinh và ngày càng
phức từp, đó là những mặt trái của cừnh tranh. Đ ể đối phó với tình trừng trên,
trong những năm qua Trung Quốc đã bắt đẩu bắt tay vào xây dựng và hoàn thiện
Chính sách phát triển kinh tế - tập li, V i ệ n nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, N X B G i a o thông vận tải,
2004, tr. 275
1
22
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
chính sách cạnh tranh cho nền kinh tế nưởc mình, từng bước lành mạnh hoa môi
trường kinh doanh trong nước.
Trong Chương này, luận văn xin trình bày vài nét về thực trạng cạnh tranh
trong nền kinh tế Trung Quốc, bao gồm thực trạng của các hành v i cạnh tranh
không lành mạnh và các hành v i hạn chế cạnh tranh m à hiện tại Trung Quốc
đang phải đối mặt. Trên cơ sở thực trạng đó, người viết sẽ phân tích về tính cấp
thiết của việc xây dựng một chính sách cạnh tranh cho nền kinh tế Trung Quốc.
Đồng thời luận văn cũng tìm hiểu một số kết quả trong xây dựng chính sách cạnh
tranh của Trung Quốc, làm tiền đề để đưa ra nhỉng nhận xét và nhỉng kiến nghị
cho chính sách cạnh tranh của Việt Nam m à sẽ được trình bày trong Chương IU.
ì. Sự hình thành lý luận về cạnh tranh ở trung quốc
1. Nền k i n h tế thị trường X ã hội C h ủ nghĩa ở T r u n g Quốc
Cạnh tranh như đã được đề cập trong chương ì, là một phạm trù cua nền
kinh tế thị trường. Có kinh tế hàng hoa thì mới xuất hiện cạnh tranh. Lý luận về
cạnh tranh hình thành sớm ở nhỉng nưóc có nền kinh tế thị trường phát triển.
Trung Quốc hiện nay tuy là một nền kinh tế lớn, có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh trên thế giới nhưng do kinh tế thị trường mới được công nhận và xây dựng,
nên lý luận về cạnh tranh chỉ mới thực sự hình thành và phát triển trong thời gian
không lâu.
Cho tới nay, giới lý luận Trung Quốc vẫn chưa có quan đềm thống nhất về
cạnh tranh theo ý nghĩa kinh tế học. Lý luận về cạnh tranh chỉ mới thực sự được
hình thành và phát triển kể từ cải cách kinh tế năm 1978 ở Trung Quốc. Công
cuộc cải cách kinh tế được khởi xướng từ H ộ i nghị toàn thể lần thứ 3 khoa 11
năm 1978 đến H ộ i nghị toàn thể lần thứ 3 khoa 16 năm 2003. Sau 25 năm cải
cách, Trung Quốc đã hoàn thành được mục tiêu đầu tiên, đó là bước đầu tạo dựng
được hệ thống kinh tế thị trường XHCN. Có thể nói, kinh tế thị trường X H C N m à
Trung Quốc đang xây dựng chính là tiền đề quan trọng nhất để cạnh tranh được
hình thành với đúng nghĩa của nó.
Kinh tế thị trường X H C N là "một m ô hình kinh tế ở đó kinh tế thị trường
gắn liền với các thể chế cơ bản của Chủ nghĩa xã hội và thị trường đóng vai trò
23