1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Quản trị kinh doanh >

CHƯƠNG III CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.56 MB, 115 trang )


Mí <7hị Qlhư TCoa



di t4-X4WD-X&


trường định hướng X H C N ở Việt Nam ngày một nàng cao, đầy đủ và đúng đắn

hơn.

Cùng với sự xuất hiện bước đầu của nền kinh tế thị trường, các hoạt động

cạnh tranh trong nền kinh tế diễn ra ngày càng sôi động, đem lại nhiều chuyển

biến trong nền kinh tế. Bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều bất cập trong cạnh

tranh, làm hạn chế đáng kể lực đẩy của cạnh tranh trong nền kinh tế nước ta.

2. Nhồng tác động tích cực của cạnh tranh đôi với k i n h tê Việt Nam

Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới kinh tế năm 1986, nền kinh tế Việt

Nam đã có nhiều chuyển biến. Hoạt động cạnh tranh của các D N diễn ra ngày

càng sôi động hơn. Việc Nhà nước cho phép sự tồn tại của kinh tế nhiều thành

phần đã khuyến khích các D N gia nhập thị trường. Nhồng mệnh lệnh, định mức

của Nhà nước bị xoa bỏ, các D N hoạt động theo đòi hỏi của thị trường và vì lợi

nhuận của mình. Sự đòi hỏi của thị trường khiến các D N trỏ nên năng động, nhạy

bén và nhận ra một yêu cầu cho sự sống còn của bản thân mình trên thị trường đó

là phải cạnh tranh. Thêm vào đó chủ trương mở cửa nền kinh tế khiến môi trường

cạnh tranh trở nên gay gắt hơn với sự tham gia của các công ty nước ngoài vào

thị trường trong nước. Hơn nồa mở cửa cũng đặt ra yêu cầu cho các D N trong

nước là phải tích cực tham gia cạnh tranh ờ thị trường nước ngoài.

Tính tích cực của cạnh tranh đối với kinh tế Việt Nam thể hiện ở nhồng

mặt sau đây:

Cạnh tranh làm tăng hiệu quả hoạt động của các DN, từ đó làm tăng hiệu

quả của toàn bộ nền kinh tế. Từ sau khi đổi mới với việc thừa nhận kinh tế thị

trường và đưa cơ chế cạnh tranh vào nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước

ta đã có nhồng chuyển biến mạnh mẽ. Tốc độ tăng GDP trung bình trong 17

năm, từ 1987 đến 2003 đạt khoảng 6,85%/năm. Trong đó có nhồng năm đạt hơn

9,5% (năm 1995, 1996). N ă m 2003 tốc độ tăng GDP vẫn đạt 7,24% (xem biểu

đồ 1).



64



di t4-X4WD-X&


Mí <7hị Qlhư TCoa



Biểu đồ 1: GDP của Việt Nam giai đoạn 1987-2003 "



Cạnh tranh tạo động lực cho các D N không ngừng đổi mới nhằm đáp ứng

ngày càng đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Người tiêu dùng Việt Nam giờ

đây đang dẩn dẩn có tiếng nói quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các

D N trên thị trường, họ đưỉc quyền lựa chọn những hàng hoa dịch vụ m à mình

mong muốn. Chủng loại hàng hoa dịch vụ ngày càng phong phú đa dạng, nếu

như trước kia người tiêu dùng chỉ đưỉc phục vụ những loại hàng hoa thật sự cần

thiết cho cuộc sống thì ngày nay nhu cầu của họ đưỉc mở rộng. Trên thị trường

Việt Nam xuất hiện nhiều chủng loại sản phẩm dịch vụ mới với những tên tuổi

D N có uy tín như Bitis, K i n h đô, Thưỉng Đình, Thiên Long, Hải Hà.... Phong

trào cạnh tranh của các D N thể hiện rõ ở việc phấn đấu để đạt đựơc những danh

hiệu như "Hàng Việt Nam chất lưỉng cao", giải thưởng "Sao vàng đất Việt".

Cách thức cạnh tranh cũng có nhiều thay đổi, từ cạnh tranh bằng giá cả

sang cạnh tranh bằng chất lưỉng, mẫu m ã và dịch vụ kèm theo. Người tiêu dùng

vì thế m à đưỉc l ỉ i rất nhiều, họ không những đưỉc hường những hàng hoa có giá

rẻ m à chất lưỉng ngày càng đưỉc cải thiện. Đ ờ i sống xã hội không ngừng đưỉc

nâng lên.



Biểu dồ đưỉc xây dựng theo số liệu tại phụ lực 3: "GDP của Việt nam giai đoạn 1987-2003"



65



Mí <7hị Qlhư TCoa



di



t4-X4WD-X&


Cạnh tranh cũng có ý nghĩa lớn đối với sự hội nhập kinh tế quốc tế của

Việt Nam. Quá trình cọ sát khiến cho năng lực cạnh tranh của các D N trong nước

tăng lên. Các D N đã dần mờ rộng hoạt động của mình ra thế giới bằng cách tích

cực xuất khẩu hàng hoa ra thị trường nước ngoài, đem lại nhiều nguồn lểi cho đất

nước. K i m ngạch Xuất khẩu của Việt Nam đều tăng qua các năm, nếu như năm

1991 k i m ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2.087,1 triệu USD thì đến năm 2003 đã lên tới

19.880 triệu USD, tức là cao gấp gần l o lần (xem biểu đồ 2). Điều này chứng tỏ

hàng hoa Việt Nam ngày càng có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế cũng đưểc cải thiện

đáng kể. Theo xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới - W E F thì năng lực cạnh

tranh của Việt Nam nhìn chung liên tục tăng lên, từ năm 1997 đến năm 2004

năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã tăng lên 23 bậc (xem bảng 2). Vị thế của

Việt Nam ngày càng đưểc khẳng định trên trường quốc tế.



Biểu đồ2: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn

1991-2003



1



Triệu USD



20000

18000

16000

14000

12000

10000

8000

6000

4000

2000

Năm

oft



I$p



1



N



r &



rổ



3



Á t



tệ" tệp &



cổ



3



cổ*



c &



tệp tệp &



rề*



rỉ?



10* &



< s > c &



f$r tệp tệp



Biểu đổ xây dựng theo số liệu tại phụ lục 4: "Tinh hình xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1991-2003".



66



£í Ihi Qlhư 7ố«a

Bảng 2: VỊ trí xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam



Năm



1997



1998



1999



2000



2001



Xếp hạng/ tổng số



49/53



39/53



48/53



60/75



60/80



4



14



5



15



15



Khoảng cách đến

nước thấp nhất



2002



2003



60/102 77/104

42



27



Nguồn: Báo điện tử VnEpress - Năng lực cạnh tranh - Việt Nam có tụt hậu,

Ra ngày 10/7/2005

N h ư vậy cơ chế cạnh tranh từ khi xuất hiện đã thổi một luồng không khí

mới vào nề kinh tế Việt Nam. Cạnh tranh với những mặt tích cực của nó đã góp

n

phấn hoàn thành những mẩc tiêu kinh tế m à công cuộc Đ ổ i mới của Đẳng và

Nhà nước đã đề ra, đồng thời đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam vào

nền kinh tế quốc tế.

3. Những bất cập t r o n g cạnh t r a n h ở Việt Nam

Bên cạnh những mặt tích cực m à cạnh tranh mang lại, kinh tế Việt Nam

cũng phải đối mặt với những khía cạnh tiêu cực của cạnh tranh. Đây cũng là vấn

đề m à nhiều nước đi trước Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường.

Môi trường cạnh tranh của Việt Nam hiện nay đang tổn tại những thực trạng

đáng báo động, đó là sự xuất hiện của những hành v i cạnh tranh không lành

mạnh, hạn chế cạnh tranh, độc quyền. Môi trường tự do kinh doanh cùng với

thiên hướng bảo vệ lợi ích các nhân đã dẫn đến các hoạt động cạnh tranh tự phát,

thái quá, cực đoan, gây rối loạn, bóp méo cạnh tranh và những tác động tích cực

của nó đối với nền kinh tế. Mặt khác, do những nguyên nhân lịch sử để lại nén

cạnh tranh cũng chưa thực sự phát huy được vai trò cùa nó trong nền kinh tế Việt

Nam.



3.1. Cấu trúc thị trường

Hiện nay cấu trẩc thị trường của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa thuận

lợi cho sự vận hành của cơ chế cạnh tranh. Việt Nam đã trải qua một thời gian

dài dưới cơ chế kế hoạch hoa tập trung quan liêu bao cấp. Tư tưởng phủ nhận

cạnh tranh và kinh tế thị trường đã ăn sâu vào trong tiềm thức của người dân và

cả các nhà lãnh đạo đất nước, không thể xoa bỏ trong một sớm một chiều. Kinh

67



ơi i+X4orDXJOig



Mề Ihi QUtư Tùtta



tế thị trưởng và cạnh tranh m ớ i được thừa nhận trong từ công cuộc Đ ố i mới, đến

nay chua đầy 20 n ă m nên vẫn còn non trẻ. Thị trường đương nhiên không khỏi

bỡ ngỡ trước sự vận hành cỷa cơ chế mới. Nhận thức về cạnh tranh và kinh tế thị

trường cỷa đại đa số quần chúng còn chưa đầy đỷ và ý thức pháp luật còn kém,

dẫn đến tình trạng các chù thể kinh tế tiến hành cạnh tranh một cách tự phát,

không có trật tự.

K i n h tế Nhànước vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế. Trong

nhiều lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh, vẫn còn tình trạng phân biệt đối

m

xử giữa các thành phần kinh tế, là hạn chế động lực cạnh tranh cỷa các D N

thuộc các thành phần kinh tế ngoà quốc doanh. Ngoài ra hình thái và mức độ

i

biểu hiện cỷa hành v i cạnh tranh ở nhiều lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng

khoán, dầu tư, sở hữu trí tuệ và thương mại còn chua đầy đỷ và rõ nét.

Nước ta chỷ chương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN, đây là một m ô hình kinh tế mới, chỉ xuất hiện ở một số nước nên khá

mới mẻ đối với Việt Nam. Nguyên tắc vận hành cỷa nền kinh tế còn đang được

dần hoàn thiện.

Những hạn chế trên góp phần khiến cho những mặt trái cỷa cạnh tranh

xuất hiện ngày càng phổ biến trong nền kinh tế Việt Nam.



3.2. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Theo Luật cạnh tranh cỷa nước C H X H C N Việt Nam ban hành ngày

03/12/2004, Các hành v i cạnh tranh không lành mạnh là " hành vi cạnh tranh

của DN trong quá trình kinh doanh trái với những chuẩn mực thông thường về

đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của nhà

nước , quyền và lợi ích hợp pháp của DN khác và người tiêu dùng " (Khoản 4,

Điều 3). Các hà v i cạnh tranh không lành mạnh bao gồm những hành v i như:

nh

Chỉ dẩn gáy nhầm lẩn, xâm phạm bi mật kinh doanh, gièm pha DN khác, gây rối

loạn hoạt đửng kinh doanh của DN khác, quảng cáo nhằm cạnh tranh không

lành mạnh, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, phân biệt đối xử của

hiệp hửi, bán hành đa cấp bất chính...(Điều 39).

Theo những tiêu chí trên, có thể thấy một thực tế là trong những năm gần

đây, các hành v i cạnh tranh không lành mạnh diễn ra phổ biến ở thị trường Việt

68



£1 giạ Qlhư TCea



ơi i4-X40D-3t&fìlG



t

Nam. Hầu hết các D N trên thị trường đều có các hành v i loại này hoặc í nhiều

mang tính chất, đặc điểm cùa hành v i thuộc loại này. Những hành v i cạnh tranh

không lành mạnh diễn ra phổ biến ở thị trường Việt Nam là:

Làm nhái hàng hoa, bao bì của sản phẩm của các DN nổi tiếng gây nhẩm

lẫn nhằm lừa đảo khách hàng: Có thể nói hiện tượng này đang trở thành một nỗi

nhức nhải, gây bức xúc cho người tiêu dùng. Thay vì được xử dụng sản phẩm có

chất lượng, người tiêu dùng lại mua phải hàng hoa kém chất lượng, thậm chí là

gây độc hại đến sức khoe chỉ vì nhầm lẫn do bao bì của hàng hoa quá giảng

nhau. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam xuất hiện những mặt hàng rất có

chất lượng và được người tiêu dùng tin tưởng sử dụng như : bột giặt OMO



của



công ty Unilever, nước khoáng Lavie, bánh Chocopie của Orion....Ngay lập tức

những sản phẩm với những cái tên tương tự, mẫu m ã bao bì ỵ trang, chỉ thay đổi

tên của nhà sản suất, của các xí nghiệp không tên tuổi tràn ngập trên thị trường,

nhằm đánh lừa người mua không tinh ý. Thậm chí cả dược phẩm cũng bị làm

nhái tên, bao bì. Đây thực sự là một mải lo ngại đải với sức khoe cộng đồng.

Nạn hàng giả: là một hành v i v i phạm pháp luật, các cơ sở sản suất hàng

giả sử dụng nhãn hàng, bao bì của các sản phẩm có uy tín để sản suất ra những

sản phẩm kém chất lượng, thậm chí là không thể sử dụng được để bán ra thị

trường, thu k ợ i bất chính. Nạn hàng giả rất phổ biến với các sản phẩm như: hoa

mỹ phẩm, dược phẩm, thực phẩm... là những mặt hàng m à người tiêu dùng không

thể kiểm nghiệm chất lượng ngay k h i mua hàng. Thời gian qua, cứ m ỗ i dịp lễ tết

hàng năm, người tiêu dùng lại phải lo đải phó với các loại bánh kẹo, rượu giả tràn

ngập trên thị trường.

Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh: Trong những năm gần đây,

cùng với sự phát triển của thương mại, dịch vụ, hoạt động quảng cáo của các D N

diên ra rất sôi động ở Việt Nam. Quảng cáo trở thành một công cụ đắc lực của

các D N để đưa sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng. Tuy nhiên, do chưa

có những quy định rõ ràng trong lĩnh vực này nhất là k h i chưa có luật cạnh tranh

thì hoạt động quảng cáo diễn ra rất bừa bãi, trở thành một công cụ để các D N lợi

dụng nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Trên các phương tiện thông t i n đại

chúng, xuất hiện những mục quảng cáo rất rầm rộ, phóng đại không đúng sự thật

69



£1 giạ Qlhư TCea



ơi i4-X40D-3t&fìlG



về chất lượng của sản phàm, lòi lẽ trong quảng cáo rất tuy tiện. Đôi k h i có những

mục quảng cáo, với những chi tiết có hàm ý so sánh với sản phẩm của các đối thủ

cạnh tranh như đem so sánh sản phẩm của mình với một "sản phẩm thông

thường" không có nhãn mác cụ thể nhưng lại khiến người tiêu dùng liên tưởng

đến một sản phẩm cụ thể đang được lưu thông trẽn thị trường.

Ngoài ra, còn có tình trạng cấc D N tung ra các chiến dịch khuyến mãi,

giảm giá, mua hàng có thưởng nhựm lừa đảo khách hàng. Trên các phương tiện

thông tin đại chúng, người tiêu dùng liên tục nghe về các chương trình khuyế

n

mãi hấp dẫn k h i mua sản phẩm, hay các chương trình trúng thưởng bựng vé cào

đi kèm với sản phẩm nhưng trên thực tế người tiêu dùng mua các sản phẩm đó

nhưng giải thường thì không thấy đâu, thậm chí các chương trình bốc thăm, hay

vé cào cũng chỉ là lừa bịp.

Dèm pha đối thủ cạnh tranh: Đây là hành v i của các D N tung ra thị

trường những t i n đồn không đúng sự thật nhựm vu khống, giảm uy tín của D N

khác gây hoang mang cho người tiêu dùng. Hành v i này thường diễn ra dưới các

hình thức như: tung tin truyền miệng, móc nối với các phương tiện thông tin đại

chúng để đưa ra những thông tin sai lệch. Hành v i này tác động trực tiếp làm tổn

hại đế uy tín và lợi ích kinh tế của cấc D N khác trên thị trường.

n

Ngoài các hành v i cạnh tranh không lành mạnh trên, ở Việt Nam còn xuất

hiện những hành v i như: bán phá giá, ăn cắp bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa,

xâm phạm bí mật kinh doanh, lôi kéo nhân viên của đối thủ cạnh tranh...

3.3. Những hành vi hạn chê cạnh tranh.

Theo Luật cạnh tranh của Việt Nam thì các hành v i hạn chếcạnh tranh là:

"Hành vi của DN làm suy giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Bao

gồm hành vi thoa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị

trường, lạm dụng vi trí độc quyền và tập trung kinh tế".

Gần đây ở Việt Nam xuất hiện tình trạng phối hợp hành động (một dạng

thoa thuận chính thức) giữa các D N là đối thủ cạnh tranh trong Hiệp hội ngành

nghề như: ràng buộc các D N thành viên trong việc định giá mua nông sản xuất

khẩu (Hiệp hội cây điều Việt Nam), ràng buộc về phương thức tính giá (Hiệp hội

taxi), thông đồng trong đấu thầu xây dựng để định ra người thắng thầu hoặc làm

70



£1 giạ Qlhư TCea



ơi i4-X40D-3t&fìlG



sai lệch trúng thầu...thậm chí còn ép buộc các D N không là thành viên phải tuân

thủ những quy định hạn chế kinh doanh này '

.

Nhìn chung ở Việt Nam hiện nay, những hành v i hạn chế cạnh tranh như

thoa thuận hạn chế cạnh tranh chưa phổ biến. Mặc dù đã xuất hiện liên kết về giá

cả của các D N đó với một số mặt hàng nhất định làm tăng giá, nhưng mức độ

liên kết chưa cao, và chưa gây hậu quả gì nghiêm trựng đến lợi ích của xã hội.

Nhưng cần phải chú ý rằng, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì hình

thức thoa thuận gây hạn chế cạnh tranh sẽ diễn ra ngày càng phổ biến dưới dạng:

cấu kết về giá cả, chia sẻ thị trường, kiểm soát lượng hàng hóa sản suất, bán ra.

M ộ t trong những vấn đề còn tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam, gây hạn

chế cạnh tranh đó là sự ra đời và tổn tại của các TCT 90, 91 vào đầu những năm

1990. Sự hình thành của các TCT 90, 91 ở Việt Nam thực chất là một quá trình

tích tụ các nguồn lực và thế lực thị trường, gây trở ngại cho sự vận hành của cơ

chế cạnh tranh trong nền kinh tế. Các D N N N nói chung và đặc biệt là các TCT

90, 91 là các D N có vị thế độc quyền trong một số ngành và một điều khó có thể

tránh khỏi là việc các D N này lạm dụng vị thế độc quyền, và khống chế thị

trường của mình để hạn chế cạnh tranh.

Hiện nay nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sang vận hành theo

cơ chế thị trường, tỷ trựng kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế rất cao và có sự

chênh lệch đáng kể năng lực cạnh tranh giữa những D N N N và các D N ngoài

quốc doanh. Việc có được vị trí khống chế thị trường của một số D N đều được

các nước trên thế giới chấp nhận ở một mức độ nào đó. Đứng trên góc độ pháp

luật về cạnh tranh thì chỉ có việc lạm dụng vị trí khống chế thị trường và độc

quyền là cần phải điểu chỉnh. Đ ộ c quyền và vị trí khống chế thị trường của Nhà

nước trong một chừng mực nhất định là cần thiết vì những lý do như an ninh

quốc gia, giữ vững vai trò chủ đạo của KTNN, sự cân nhắc giữa hai mục tiêu là

hiệu quả kinh tế hay công bằng xã hội. Tuy nhiên về lâu dài, việc lạm dụng độc

quyền và vị trí khống chế thị trường của các D N N N sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả

kinh tế chung, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế. Hiện



"Dự thảo Luật cạnh tranh lần thứ 9: D N N N cũng sẽ bị giám sát" tại trang web:

http://www.ttvnol.com/khpl/111213/trang-19.ttvn



71



£í Ihi Qlhư 7ố«a

nay, độc quyền cùa các D N N N ở Việt Nam diễn ra chủ yếu trong các ngành như:

hàng không, bưu chính viễn thông, vận tải đường biển quốc tế, đường sắt, điện

nước, x i măng...

Các hành v i lạm dụng ưu thế của các D N chi phối thị trường đang diễn ra

m à chưa được quản lý triệt để bặng pháp luật. Các D N độc quyền mua thì ấn

định giá mua thấp (như mua nông sản của nông dân), độc quyền bán thì bán giá

cao hay kìm giữ giá để thu lợi nhuận siêu ngạch hoặc định giá bán thấp hơn giá

vốn để loại trừ đối thủ cạnh tranh. Tinh trạng áp đặt các điều kiện ràng buộc bất

hợp lý trong kinh doanh như ép mua, ép bán, bán kèm, mua kèm những sản

phẩm, dịch vụ không cần thiết chủ yếu diễn ra giữa các nhà máy chế biến, công

ty thu mua với nông dân đã xuất hiện thời gian dài nhưng chưa bị xử lý.

Tác động tiêu cực của việc lạm dụng độc quyền và vị trí khống chế thị

trường thể hiện ở những điểm sau:

- làm tăng mặt bặng giá ở thị trường Việt Nam, khiến môi trường kinh

doanh ở Việt Nam trở nên dắt đỏ, kém hấp dẫn

- L à m giảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ trong những ngành độc quyền.

- Tạo sự bất bình đẳng trong thu nhập.

- Triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường.

Tất cả những tác động trên đều kéo l u i sự phát triển đi lên của nền kinh tế,

ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng và của toàn xã hội, làm giảm vị thế

kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế.



• Hạn chế cạnh tranh bởi chính sách của Nhà nước

Đây thực chất là hạn chế cạnh tranh mang tính chất hành chính. Tinh trạng

này diễn ra rất phổ biến ở những nước như Việt Nam và Trung Quốc - là những

nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, chức năng quản lý của Nhà

nước và chức năng kinh doanh chua được tách biệt rõ ràng. ở Việt Nam, các

D N N N thường là các D N được đặt dưới sự quản lý của một bộ, ban, ngành nào

đó. Các D N này nhận được sự bảo hộ và nhiều un đãi từ Nhà nước. Nhà nước đấu

tư cho các D N trực tiếp bặng vốn ngân sách Nhà nước hoặc vốn vay ưu đãi trong

hoặc ngoài nước. Việc bù l ỗ cho những D N làm ăn kém hiệu quả, trực tiếp xử lý

các vướng mắc trong kinh doanh cho các DN. R õ ràng là những D N nhận được

72



£1 giạ Qlhư TCea



ơi i4-X40D-3t&fìlG



những hỗ trợ như vậy từ Nhà nước sẽ giành được nhiều ưu thế trong kinh doanh

hơn những D N khác. Tuy nhiên, việc bảo hộ kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng trì trệ,

kém hiệu quả của các D N được bảo hộ.

Do quyền l ợ i địa phương, cục bộ, một số cơ quan Nhà nước, bằng các

mệnh lệnh hành chính của mình, gián tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh

của các DN, tạo lợi thế cho một hay một số D N vẫn đang diỉn ra trên thị trường.

Tinh trạng này làm xuất hiện những rào cản thương mại ngay trên chính thị

trường nội địa theo cách "chỉ mua được x i măng của tỉnh nhà trong xây dựng,

hay gần đây là việc Sở Giáo dục một tỉnh yêu cầu các trường phổ thông trên địa

bàn chỉ được mua bút bi của một DN, làm mất cơ hội cạnh tranh bình đẳng của

các D N khác, gây thiệt hại cho người tiêu dùng .

1



Các thủ tục hành chính của Nhà nước cũng là một vật cản cho quá trình tự

do cạnh tranh của các DN. Cấc D N ngoài quốc doanh ở Việt Nam thường gặp

khó khăn trong các thủ tục xin giấy phép thành lập DN. Cơ chế nhiều cửa và cơ

chế xin cho từ lâu đã trở thành nỗi e ngại của bất cứ D N nào có ý định kinh

doanh trên thị trường Việt Nam. Các thủ tục hành chính rườm rà vô tình đã tạo

điều kiện cho những hành v i sai trái của các cán bộ, công chức Nhà nước, làm

hạn chế cạnh tranh. V ớ itìnhtrạng này thì những D N làm ăn minh bạch, đứng

đắn sẽ rất khó khăn trong việc tìm chồ đứng trên thị trường.

4. Yêu cầu khách quan của việc xây dựng và hoàn thiện chính sách cạnh

t r a n h ở Việt Nam

Như đã trình bày ở phần Ì, từ khi được đưa vào cơ cấu kinh tế của Việt

Nam, cơ chế cạnh tranh đã thể hiện được tính ưu việt đối với nền kinh tế. Việc

tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của cơ chế cạnh tranh thực sự là một

bước đi đúng đắn của công cuộc Đ ổ i mới của Đảng và Nhà nước ta. Cạnh tranh

và kinh tế thị trường đã làm thay đổi diện mạo nền kinh tế đất nước so với thời kỳ

kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoa tập trung bao cấp. Tuy nhiên, kinh tế thị trường

và cạnh tranh m ớ i chỉ thực sự được thừa nhận và phát huy vai trò của nó kể từ

công cuộc Đ ổ i mới, đến nay mới gần 20 năm, do đó mức độ biểu hiện của hành



1



" D ự thảo Luật cạnh tranh lần thứ 9: D N N N cùng sẽ bị giám sát"

http:/Avww.ttvnoỉ.com/khpl/l ĩ 1213/tranp-19.tlvn



73



£1 giạ Qlhư TCea



ơi i4-X40D-3t&fìlG



vi cạnh tranh trong nhiều lĩnh vục còn chưa đầy đủ, rõ nét. Thêm vào đó, hệ

thống chính sách, trong đó có chính sách cạnh tranh, của Việt Nam hiện nay

đang được đánh giá là kém hơn so với mức trung bình của các nước đang phát

triển trong khu vực.

Một thực tế diễn ra trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam cũng như ờ

các nước khác là sự phổ biến của các hành v i cạnh tranh không lành mạnh và các

hành v i hạn chế cạnh tranh. Nhỏng hành vi này đang làm biến tướng cạnh tranh

và mất đi nhỏng tác động tích cực m à cạnh tranh có thể đem lại cho nền kinh tế,

không nhỏng thế còn kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở nước ta cho thấy cấu trúc thị

trường Việt Nam có nhiều điểm khiến cho các hành v i cạnh tranh không lành

mạnh và hạn chế cạnh tranh có điều kiện diễn ra. Khác với các nước có bề dày

phát triển kinh tế thị trường, thị trường Việt Nam còn rất bé nhỏ, số lượng các

D N trong một ngành chưa nhiều, chỉ có một số D N hầu nhu chiếm vị trí thống

lĩnh thị trường. Thêm vào đó, kinh tế Nhà nước vẫn được coi là giỏ vai trò chủ

đạo và sự tồn tại của các D N N N gắn chặt vơi chức năng quản lý của các bộ,

ngành gây nên tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh

Trong nhỏng năm gần đây, Nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa và

hội nhập, thách thức đặt ra cho các D N Việt Nam là phải vươn lên để đủ sức cạnh

tranh với các D N nước ngoài. Bên cạnh đó, phải chú trọng bảo hộ nền sản xuất

còn non trẻ một cách hợp lý. Cạnh tranh do đó không phải là một vấn đề đơn

giản, không chỉ đơn thuần là tìm cách vượt lên trên để giành lấy ưu thế m à phải

là một biện pháp tổng hợp, có sự kết hợp chặt chẽ với nhỏng vấn đề có liên quan.

Vì thế việc xây dựng một chính sách cạnh tranh thống nhất trên cơ sở cân nhấc

nhỏng mục tiêu kinh tế - xã hội trong dài hạn là một việc cần thiết đối với sự phát

triển kinh tế nước ta.

Một đặc điểm nỏa là mặc dù đã có nhỏng luật, quy định điều chỉnh hoạt

động cạnh tranh nhưng Việt Nam vẫn chưa xây dựng được một khung pháp luật

về cạnh tranh thống nhất, đầy đủ. Điều này tạo kẽ hở cho các hành v i cạnh tranh

không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh diễn ra một cách tự phát và rất khó kiểm

soát. Sự can thiệp của Nhà nước thông qua hoạch định một chính sách cạnh tranh

74



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

×