Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.56 MB, 115 trang )
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
chính sách cạnh tranh cho nền kinh tế nưởc mình, từng bước lành mạnh hoa môi
trường kinh doanh trong nước.
Trong Chương này, luận văn xin trình bày vài nét về thực trạng cạnh tranh
trong nền kinh tế Trung Quốc, bao gồm thực trạng của các hành v i cạnh tranh
không lành mạnh và các hành v i hạn chế cạnh tranh m à hiện tại Trung Quốc
đang phải đối mặt. Trên cơ sở thực trạng đó, người viết sẽ phân tích về tính cấp
thiết của việc xây dựng một chính sách cạnh tranh cho nền kinh tế Trung Quốc.
Đồng thời luận văn cũng tìm hiểu một số kết quả trong xây dựng chính sách cạnh
tranh của Trung Quốc, làm tiền đề để đưa ra nhỉng nhận xét và nhỉng kiến nghị
cho chính sách cạnh tranh của Việt Nam m à sẽ được trình bày trong Chương IU.
ì. Sự hình thành lý luận về cạnh tranh ở trung quốc
1. Nền k i n h tế thị trường X ã hội C h ủ nghĩa ở T r u n g Quốc
Cạnh tranh như đã được đề cập trong chương ì, là một phạm trù cua nền
kinh tế thị trường. Có kinh tế hàng hoa thì mới xuất hiện cạnh tranh. Lý luận về
cạnh tranh hình thành sớm ở nhỉng nưóc có nền kinh tế thị trường phát triển.
Trung Quốc hiện nay tuy là một nền kinh tế lớn, có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh trên thế giới nhưng do kinh tế thị trường mới được công nhận và xây dựng,
nên lý luận về cạnh tranh chỉ mới thực sự hình thành và phát triển trong thời gian
không lâu.
Cho tới nay, giới lý luận Trung Quốc vẫn chưa có quan đềm thống nhất về
cạnh tranh theo ý nghĩa kinh tế học. Lý luận về cạnh tranh chỉ mới thực sự được
hình thành và phát triển kể từ cải cách kinh tế năm 1978 ở Trung Quốc. Công
cuộc cải cách kinh tế được khởi xướng từ H ộ i nghị toàn thể lần thứ 3 khoa 11
năm 1978 đến H ộ i nghị toàn thể lần thứ 3 khoa 16 năm 2003. Sau 25 năm cải
cách, Trung Quốc đã hoàn thành được mục tiêu đầu tiên, đó là bước đầu tạo dựng
được hệ thống kinh tế thị trường XHCN. Có thể nói, kinh tế thị trường X H C N m à
Trung Quốc đang xây dựng chính là tiền đề quan trọng nhất để cạnh tranh được
hình thành với đúng nghĩa của nó.
Kinh tế thị trường X H C N là "một m ô hình kinh tế ở đó kinh tế thị trường
gắn liền với các thể chế cơ bản của Chủ nghĩa xã hội và thị trường đóng vai trò
23
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
cơ bản trong việc phàn bổ các nguồn lực" '. N h ư vậy ta có thể thấy ở đày có một
sự kết hợp giữa Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường - cái m à trước đây các
nước X H C N cho rống chi có thể tồn tại ở nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Sự phát
triển nhận thức về C N X H cho thấy: C N X H hoàn toàn có thể kết hợp được với
kinh tế thị trường, bởi vì nó là một hệ thống có tính mở cao, linh hoạt. Việc kết
hợp với kinh tế thị trường sẽ giúp C N X H đạt được hiệu quả cao trong việc phân
bổ các nguồn lực và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, C N X H sẽ hỗ trợ xử
lý các khiếm khuyết của kinh tế thị trường với nguyên tắc công bống, dân chủ.
Bản chất của kinh tế thị trường X H C N là kinh tế thị trường của nhân dân, ở đó
dân là người ra quyết định và tham gia vào các hoạt động kinh tế thị trường để
tạo ra của cải và đưa C N X H lên phát triển thịnh vượng. Chính trong môi trường
đó cạnh tranh kinh tế mới được dung dưỡng và phát triển.
25 năm thực hiện cải cách và mở cửa của Trung Quốc đã tạo dựng lên
khung khổ cơ bản cho nền kinh tế thị trường XHCN. Lý luận về kinh tế thị
trường X H C N cũng trở nên hoàn thiện và sâu sắc hơn. Nền kinh tế thị trường
X H C N là kết quả của cuộc cải cách theo học thuyết Đặng Tiểu Bình . Đây chính
2
là tư tưởng nền tảng chỉ đạo thực tiễn cải cách, từ đó Trung Quốc đã xác định
được những vấn đề cơ bản , nền tảng trong xây dựng kinh tế thị trường XHCN.
Những vấn đề đó là: xác định đặc trưng cơ bản của hệ thống kinh tế thị trường
X H C N là kinh tế thị trường của nhân dân; xã hội hoa quyền tài sản; xác định lại
nền tảng v i m ô của hệ thống kinh tế thị trường X H C N là kinh tế sờ hữu hỗn hợp;
chuyển đổi chức năng của chính quyền.
Có thể thấy Trung Quốc đang dẩn tiến tới một hệ thống kinh tế thị trường
X H C N ngày càng hoàn chỉnh cả trong lý luận và thực tiễn. Cùng với kết quả to
lớn đó, Trung Quốc cũng bắt đầu đưa cơ chế cạnh tranh vào nền kinh tế. Lý luận
về kinh tế thị trường và cạnh tranh cho thấy những bước đi này sẽ tạo dựng và
hoàn thiện tính cạnh tranh trong nền kinh tế Trung Quốc.
1
2
Chính sách phát triển kinh tế - tập li, N X B Giao thõng vận tải - 2004, tr. 18
Chính sách phát triển kinh tế - tập I I I , N X B Giao thông vận tải - 2004, tr. 19
24
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
2. Sự hình thành lý luận về cạnh tranh ở Trung Quốc
Cho tới nay, nước Trung Quốc mới đã ra đời và phát triển được 50 năm, đó
cũng là quãng thời gian hình thành lý luận về kinh tế cùa Trung Quốc. Là một
nhánh của lý luận kinh tế, lý luận về cạnh tranh cũng có quá trình hình thành như
thế.
Trước năm 1978, Trung Quốc áp dụng thể chế kinh tế kế hoạch hoa tập
trung cao độ, lý luận kinh tế chỉ chú trọng nghiên cứu bản chữt của nền kinh tế
X H C N m à coi nhẹ nghiên cứu về sự vận hành và phát triển kinh tế, phủ nhận
kinh tế thị trường cũng như các phạm trù kinh tế, quy luật kinh tế liê quan đến
n
kinh tế thị trường. C N X H ở Trung Quốc coi những gì thuộc về kinh tế thị trường
là của chủ nghĩa tư bản. Tư tưởng phủ định kinh tế thị trường đã dẫn tới sự phủ
định cạnh tranh trong nền kinh tế. X ã hội Trung Quốc lúc này coi cạnh tranh là
nguyên nhân gây ra sự phân hoa giàu nghèo, làm nảy sinh bóc lột và C N X H sẽ
không có cạnh tranh m à chỉ có thi đua. Quan điểm này cho rằng, thi đua X H C N
phản ánh quan hệ sản xuữt hỗ trợ hợp tác, thích ứng với nền kinh tế công hữu
XHCN, là động lực phát triển của nền kinh tế XHCN.
H ộ i nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chữp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc khoa X I cuối năm 1978 là mốc đánh dữu bước chuyển biến về lý
luận kinh tế cũng như lý luận cạnh tranh. Đây cũng là mốc đánh dữu sự ra đời
của công cuộc cải cách kinh tế 25 năm ở Trung Quốc. M ư ờ i năm bị cuộc Cách
mạng Văn hoa làm r ố i loạn, toàn bộ nền kinh tế quốc dân đứng trên bờ đổ vỡ,
tình thế ữy buộc Trung Quốc phải thí điểm cải cách kinh tế, đưa cơ chế cạnh
tranh vào lĩnh vực kinh tế. Bắt đầu từ đây trong giới lý luận kinh tế Trung Quốc
đã có quan điểm cho rằng: trong nền kinh tế X H C N có cạnh tranh. Quan điểm
này cho rằng nền kinh tế X H C N là nền kinh tế hàng hoa có kế hoạch, có kinh tế
hàng hoa thì tữt yếu có cạnh tranh. Phủ nhận cạnh tranh là phủ nhận sự tổn tại
khách quan của nền kinh tế hàng hoa. Tuy nhiê do nhận thức chưa rõ ràng về
n,
bản chữt của thể chế kinh tế X H C N nên vẫn còn có những quan điểm đối lập
nhau về cạnh tranh.
N ă m 1980, Trung Ương Đảng, Quốc vụ viện đã phá vỡ nhận thức truyền
thống về cạnh tranh, như đưa ra khẩu hiệu vang dội "Bảo vệ cạnh tranh". Ngày
25
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
7/10/1980, H ộ i nghị thường vụ Quốc vụ viện thông qua và công bố "Quy định
tạm thời về triển khai và bào vệ cạnh tranh XHCN".
Trong những năm 80, Trung Quốc bắt đầu thực hiện việc mờ cửa. Điểu
này có nghĩa là thực hiện gắn nền kinh tế Trung Quốc với nền kinh tế thế giới.
Thực tế hàm nghĩa của việc mở cửa là tham gia cạnh tranh quốc tế. Vì thế, tới
những năm 90, vọn đề cạnh tranh quốc tế và sức mạnh cạnh tranh quốc tế được
Trung Quốc ngày càng coi trọng. Tháng 11/1993, "Quyết định của Trung Ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc về xây dựng thể chế kinh tế thị trường X H C N " vạch
ra rằng: "Tích cực tham gia cạnh tranh quốc tế và hợp tác quốc tế, phát huy l ợ i
thế so sánh của nền kinh tế nước ta, phát triển kinh tế theo m ô hình mở cửa để
kinh tế trong nước và kinh tế thế giới bổ sung cho nhau...Không ngừng nâng cao
sức cạnh tranh quốc tế".
Đ ạ i h ộ i Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 14 năm 1992 đã chỉ ra rằng,
mục tiêu cải cách thể chế kinh tế là xây dựng kinh tế thị trường XHCN. Việc xây
dựng hệ thống này phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng những quy luật cơ bản của
kinh tế thị trường, trong đó có quy luật cạnh tranh. Không có cạnh tranh thì nền
kinh tế không thể phát triển liên tục, bình thường và với tốc độ cao và cũng
không có cái gọi là kinh tế thị trường X H C N thực sự.
Với sự hoàn thiện của lý luận về cạnh tranh và sự phát triển ngày càng đầy
đủ của hệ thống kinh tế thị trường XHCN, ngày nay Trung Quốc đã tạo lập được
một môi trường cạnh tranh kinh tế sôi nổi, cạnh tranh đã và đang bắt đầu thực
hiện vai trò là động lực cho phát triển kinh tế của Trung Quốc.
n. Thực trạng cạnh t r a n h và sự cần thiết của m ộ t chính sách cạnh t r a n h
trong nền k i n h tế T r u n g Quốc
1 Thực trạng cạnh t r a n h trong nền k i n h t ế T r u n g Quốc
.
LI. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Việc đưa cơ chế cạnh tranh vào nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc
Trung Quốc chọp nhận đối mặt với những hành v i cạnh tranh không lành mạnh
và hạn chế cạnh tranh. Trong bối cảnh kinh tế hiện tại ở Trung Quốc, thực trạng
cạnh tranh trên thị trường không những không hiệu quả m à còn bị bóp méo
nghiêm trọng. Những hành v i cạnh tranh không lành mạnh ở Trung Quốc ngày
26
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
càng gia tăng và diễn ra ở cả lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Thị trường không tự
nó chứa đựng một cơ chế đảm bảo cạnh tranh tự do và lành mạnh. Trái lại, để
giảm áp lực cạnh tranh và tránh các rủi ro, các D N luôn phải cố gắng dùng m ọ i
biện pháp để giành độc quyền trên thị trường. Trong giai đoạn phát triển hiện nay
của Trung Quốc, k h i m à cơ chếthị trường vổn chưa hình thành đầy đủ thì hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của các D N sẽ xuất hiện một cách thường xuyên.
Theo các chuyên gia kinh tế Trung Quốc thì hành vi cạnh tranh không lành mạnh
là hành v i cạnh tranh gây thiệt hại cho đối thủ một cách bất hợp pháp và làm tổn
hại đến hiệu quả của nền kinh tế . Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh
trong các văn bản pháp luật của Trung Quốc tương đối giống nhau, đó là: Những
hành vi cạnh tranh gian dối, lừa đảo, thiếu trung thực, nhằm kiếm lợi riêng cho
mình, trái với các quy định của pháp luật và đi ngược lại với những nguyên tắc
của XHCN, xâm hại l ợ i ích của Nhà nước, của các D N và người tiêu dùng trong
xã hội.
Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc ban hành ngày
2/9/1993 định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh: "hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là chỉ hành vi của pháp nhân, tổ chức kinh tế, hoặc cá nhân trái
với quy định của Luật này, gây thiệt hại đế quyền và lợi ích hợp pháp của pháp
n
nhân, tổ chức kinh tế hoặc cá nhãn khác và làm ảnh hường đế trật tự kinh tế - xã
n
hội" (Điều 2). Luật này cũng đưa ra quy định cấm các hành v i cạnh tranh không
lành mạnh. Bao gồm: mạo nhận nhãn hiệu hành hoa đã đăng ký của người khác;
Sử dụng tên, hình thức đóng gói, nhãn mác giống với hàng hoa của DN khác
khiến khách hàng nhẩm lẫn; sử dụng tên DN hoặc tên sản phẩm của DN khác
gây nhấm lẫn; Đưa ra thông tin sai về chất lượng, nguển gốc hàng hoa (Điêu 5);
Có hành vi hôi lộ, đút lót đê có lợi thế khi mua bán hàng (Điều 8); Quảng cáo
sai sự thật (Điều 9); Xâm phạm bí mật kinh doanh của người khác (Điều 10); Có
hành vi bán hạ giá, hạ giá một cách phi lý để loại trừ cạnh tranh (Điều li); Gắn
thêm điều kiện phi lý với việc mua hàng (Điều 12); Gắn việc mua hàng với những
27
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
biện pháp thưởng có tính lừa đảo (Điều 13); Dèm pha đối thủ cạnh tranh (Điều
14); Câu kết khi dự thầu (Điểu 15)...'
Mặc dù đã có nhiều luật và quy định pháp lý về chống cạnh tranh không
lành mạnh, nhưng hệ thống khuôn khổ pháp lý và những quy định điều chỉnh các
hành v i cạnh tranh không lành mạnh chưa được hoàn thiện, thêm vào đó ý thức
của D N cũng như người dân chưa đựoc tốt nên dẫn đến nhiều hành v i cạnh tranh
không lành mạnh trong nền kinh tế Trung Quốc. Những hiện tượng như sản xuểt
và lưu thông hàng giả, quảng cáo sai, tung tin đồn, v i phạm quyền sở hữu trí tuệ,
dùng thủ đoạn không "sạch sẽ" để cạnh tranh diễn ra tương đối phổ biến. Riêng
trong năm 1996, tổng số vụ điều tra, xét xử các hành v i cạnh tranh không lành
mạnh của Uy ban quản lý Nhà nước về Công nghiệp và Thương mại ở Trung
Quốc (SAIC) đã lên tới 11388 trường hợp. Trong đó, 2705 trường hợp là mạo
nhận nhãn hiệu hàng hoa đã đăng ký của người khác, 1944 trường hợp sử dụng
tên, hình thức đóng gói, nhãn mác giống với hàng hoa của các D N nổi tiếng gây
nhầm lẫn, 1666 trường hợp sử dụng tên của D N hoặc tên sản phẩm của D N gây
nhầm lẫn...Trong số đó có 37 vụ có trị giá bị xâm phạm từ 300 000 đến 1000 000
NDT, 14 vụ lên tới hơn 1000 000 NDT (xem bảng 1). Những con số này còn tăng
hơn nữa trong năm 1997.
Có thể thểy rằng ngay cả khi luật chống cạnh tranh không lành mạnh đã
được ban hành thì các vụ việc liên quan đến hành v i cạnh tranh không lành mạnh
vẫn không ngừng gia tăng. Có thể kể ra đây l o vụ việc đáng lưu ý nhểt kể từ khi
Luật chống cạnh tranh không lành mạnh được ban hành năm 1993 :
2
i) Nhái nhãn hiệu "Pavetionic" của tập đoàn điện tử Rurner.
li) Nhái tên gọi, cách đóng gói và nhãn mác của sản phẩm của các công ty
nổi tiếng của công ty sản xuểt bia Lugougiao - Bắc Kinh.
iii) Nhận hoa hồng bểt hợp pháp của công ty cơ khí thuộc vụ viễn thông
Chengdu
iv) Quảng cáo sai sự thật của công ty T N H H điện tử Tianwang.
"Law against unfaừ Competition of the People's Republic of China" nfg/xgflfg/t20020420_34756.htm
1
1
www.sipo.gov.cn/sipo_English/
'TopTenC^á[reIỉieImplenienMkiicfIheLawfaCainlairigUnl^ODmpetiIĩon": www.wihuidac»infenglMi\a?hsWirỉix.asp
28
Mi &hị Qlhư 7ốna
di 14-X40
v) X â m phạm bí mật kinh doanh của công ty điện tử Jinyu.
vi) Khuyến mãi thiếu công bằng của công ty M ô tô Hainan Sundiro.
vii) Công ty điện công nghiệp Shandong Qihe lạm dụng việc thu phí sử
dụng điện làm hạn chế cạnh tranh trong hệ thống cung cấp điện nông thôn
viii) Lạm dụng việc thu phí của công ty cấp thoát nước thành phố Sichuan.
i x ) Cõng ty cung cấp ga và than Sanxi Taiyuan ép buộc khách hàng
mua
sản phẩm bếp ga của công ty và lạm dụng việc thu phí.
x) Chính sách bảo hộ địa phương đối với sản phẩm rượu ở thị xã Dawa và
thành phố Donggang thuộc tữnh Liaoning.
Đây chữ là l o trong số hàng chục nghìn vụ được đưa ra điều tra xét xử ở
Trung Quốc kể từ khi Luật chống cạnh tranh không lành mạnh được ban hành.
Những hành v i cạnh tranh không lành mạnh như trên không những làm tổn hại
đến lợi ích của người tiêu dùng, người sản xuất m à còn gây cản trở đến quá trình
hội nhập kinh tế Quốc tế của Trung Quốc, nhất là k h i giờ đây Trung Quốc đã trở
thành thành viên của WTO. Chính vì những hành v i cạnh tranh kiểu như vậy m à
cạnh tranh trên thị trường không những vận hành kém hiệu quả m à còn bị bóp
méo nghiêm trọng.
29
di f4-X4
£í QUỊ QUiư Tủoa
Bảng Ì: Tổng sô các vụ liên quan đến cạnh tranh không lành
mạnh được điều tra và xét xử bởi SAIC ở Trung Quốc trong n ă m 1996
Trong đó
Trường hợp
Tổng
Vụ từ loong300 ng NDT
Vu từ 300ngltr NDT
Tổng sô vụ
11388
121
37
14
24
3
3
17
3
-
17
5
1
17
6
1
8
-
-
59
_
_
1
228
3
_
1
Mạo nhận nhãn hiệu
hoàng hoa đã đăng
2705
kỷ của người khác
Nhái tên, quy cách
đóng gói, nhãn mác
1944
hàng hoa của DN khác
Sử dụng tên hoặc
tên riêng của DN
1666
khác gây nhầm lẫn
Hàng giả, đưa thông
2490
tin sai về chất lượng,
nguồn gốc hàng hoa
Xâm phạm bí mật
51
kình doanh
Bán phá giá
Bán hàng có thưộng
có tính lừa đảo
Vu trên 1 tr
NÓT
Quảng cáo sai sự thật 1427
20
3
2
Hối lộ, đút lót nhằm
giành điều kiện kinh 494
doanh có lơi
12
9
2
Dèm pha đối thủ
_
_
_
-
-
-
li
Gắn thêm những
điều kiện phi lý với 42
việc mua hàng
Câu kết khi dự thầu
Tổng giá trị các
vụ( tr N D T )
23
_
738,22
NguổnMiự.llwww.2W.69.106.l68ldoclChinalStatisticslcnsta97.html
(tháng 9/1997)
30
CÀ r4-X4ữV-3C&'}l&
Mê Ghi Qthư 7ủtM
1.2. Những hạn chế gây cản trở cạnh tranh
Những hạn chế gây cản trở cạnh tranh là một trong những mặt trái cùa
cạnh tranh, nó cùng với những hành v i cạnh tranh không lành mạnh làm thui
chột, bóp méo cạnh tranh trong nền kinh tế. Những hạn chế gây cản trở cạnh
tranh là những hành v i hoặc thỏa thuận có thể dẫn đến việc cản trở, hạn chê hoặc
biến dạng tính chất của cạnh tranh. Dưới đây là thực trạng những hạn chế gây
cản trở cạnh tranh ở Trung Quốc và ảnh hưồng tiêu cực của chúng đối với cạnh
tranh cũng như đối với kinh tế Trung Quốc
1.2.1. Câu kết gây cản trờ cạnh tranh
Càu kết gây cản trồ cạnh tranh là nhũng hành v i câu kết giữa các D N độc
lập về pháp lý dưới hình thức ký kết hợp đồng hoặc thoa thuận ngầm về giá cả,
sản xuất, thị trưồng nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh.
Kể từ k h i đưa cơ chế cạnh tranh vào nề kinh tí, ở Trung Quốc xuất hiện
n
ngày càng nhiều những hành v i câu kết gây cản trở cạnh tranh. Các hành v i này
chủ yếu diễn ra dưới hình thức áp đặt và điề chỉnh giá cả giữa các nhà cung ứng
u
với nhau nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh của mình. N ă m 1987, ồ Trung Quốc có
trưồng hợp 108 D N sản xuất dụng cụ điện hạ thế đã cùng nhau áp đặt hạn chế vê
giá đối với khoảng 260 mặt hàng. N ă m 1993, trong giai đoạn chiến tranh về giá
máy điều hoa nhiệt độ ở Nam Kinh, để đánh bại đối thủ cạnh tranh của mình, 8
cửa hàng lớn nhất của Nhà nước đã cùng nhau đưa ra mức giá cao nhất cho máy
điều hoa nhiệt độ '. N ă m 1994, 51 nhà cung ứng dịch vụ nhắn tin đã cùng nhau
đưa ra những hạn chế vềphí cung ứng dịch vụ . Hay sự kiện ngày 8/9 hoặc liên
2
minh giá 15 ngày, đăng trên báo Beijing Daily ngày 9/3/1996 cũng là một ví dụ
điển hình về câu kết hạn chế giá cả. Thồi gian gần đây dưới tác động mạnh mẽ
của cạnh tranh, các liên minh giá cả giữa các đối thủ cạnh tranh trở nên ngày
càng phổ biến. Tháng 5 năm 1999, 8 nhà sản xuất kinetkốp đã thành lập một liên
minh ở Bắc K i n h và đưa ra lệnh tạm ngưng sản xuất một tháng để ngăn chặn tình
trạng giảm giá của mặt hàng này trên thị trưởng . Tháng 3 năm 2000, các nhà
3
sản xuất lớn về máy điều hoa nhiệt độ dã thành lập một liên minh ở Nam Kinh
1
2
1
Nanjing Daily, số 22, tháng 12 năm 1993
Chinaõaily, 12/1/1995
Worker's Daily News Weekend, 20/4/2001
31
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
nhưng liên minh giá này đã thất bại chỉ một tháng sau đó. Gần đây, 9 nhà sản
xuất lớn võ tuyến màu, bao gồm: Không Đ ạ i , TCL và Song Vệ đã có cuộc gặp gỡ
nhằm hình thành một liên minh giá trong lĩnh vực vô tuyến màu...
Những liên minh về giá này rõ ràng đã có tác động không tốt đến lợi ích
cịa người tiêu dùng. Tuy nhiên một hành v i câu kết nữa đang diễn ra trong nền
kinh tế Trung Quốc với quy m ô lớn hơn, dưới sự chỉ đạo cịa các cơ quan Nhà
nước có liên quan, đó là "giá tự ấn định theo ngành " m à nhiều ngành ở Trung
Quốc đã thực hiện trong 1998. Hiện tượng "giá tự ấn định theo ngành" ở Trung
Quốc có thể coi là một hiện tượng câu kết có sự can thiệp hành chính vào cạnh
tranh giá cả giữa các DN. Tháng 8 năm 1998, Uy ban kinh tế thương mại Nhà
nước đưa ra một "quan điểm về yêu cầu thực hiện giá tự ấn định vối một số sản
phẩm công nghiệp" '. Quan điểm này đòi hỏi các nhà sản xuất một số sản phẩm
công nghiệp phải theo dõi mức hạn chế về giá t ố i thiểu do các hiệp hội thương
mại quy định. Những sản phẩm này gồm: kính, x i măng, ô tô, phương tiện vận
chuyển phục vụ nông nghiệp...Theo đó, nếu D N nào không thực hiện đúng như
quy định sẽ phải nộp phạt. N h ư vậy có thể thấy, trên thực tế "giá tự ấn định theo
ngành" là một loại liên minh giá bắt buộc bởi vì các D N phải bán sản phẩm cịa
mình theo giá đã được quy định m à không phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất cịa
bản thân DN. Đây là một hành v i câu kết ấn định giá bắt buộc rất phi lý, nó được
đưa ra dựa trên việc tính toán chi phí trung bình cịa ngành và làm hạn chế khả
năng cạnh tranh cịa những D N đạt hiệu quả kinh tế cao hơn so với mức trung
bình đó. Điều này cản trở sự phát triển đi lên cịa hiệu quả sản xuất và làm giảm
động lực vươn lên cạnh tranh cịa D N
1.2.2. Những thỏa thuận bắt buộc gãy cản trở cạnh tranh
Đ ể hạn chế cạnh tranh cịa các đối thị khấc, trong kinh doanh, các D N
thường tìm cách ký các thỏa thuạn về bán hàng ràng buộc, về hạn chế mức giá
bán lại hoặc các hạn chế khác để hạn chế quyền quản lý cịa các đối thị cạnh
tranh hoặc đẩy các đối thị cạnh tranh vào tình thế bất lợi.
Trong đời sống kinh tế Trung Quốc, những hạn chế cản trờ cạnh tranh theo
kiểu này thường xuất hiện trong những lĩnh vực như viễn thông, điện, cung cấp
'China Daily, 11/9/1998
32
£í Hụ QUuỉ 7Ù0U
di t4-X4tyD-x&fìig
nước, ga và các ngành phục vụ công cộng khác. Thực tế ở Trung Quốc cho thấy
đã có những hiện tượng hạn chế cạnh tranh theo kiểu này xảy ra như việc cơ
quan Bưu chính viễn thông ràng buộc những người sử dụng dỉch vụ của mình
phải mua các máy điện thoại do họ chỉ đỉnh '. Hay việc cơ quan điện lực yêu cầu
những người sử dụng điện phải mua công tơ do họ chỉ đỉnh. Cơ quan cấp thoát
nước cũng yêu cầu những người sử dụng dỉch vụ của họ phải mua thiết bỉ cấp
nước do họ chỉ đỉnh . Đây cũng là cách thức m à các công ty cung ứng ga ở
2
Trung Quốc sử dụng trong quá trình lắp đặt đường ống dẫn ga trong các khu dân
cư ở một số thành phố. Các công ty này yêu cầu những người sử dụng ga của họ
phải mua các bếp ga và nồi đun m à họ cung cấp với giá đắt hơn rất nhiều so với
những sản phẩm tương tự được bán trên thỉ trường. R õ ràng những hành v i kiểu
như vậy là một hình thức bán hàng ràng buộc, người tiêu dùng bỉ hạn chế trong
việc lựa chọn những sản phẩm m à họ mong muốn được sử dụng còn các D N thì
bỉ cướp mất khách hàng và hạn chế cạnh tranh trong khi sản phẩm của họ có chất
lượng và giá cả cạnh tranh hơn nhiều. Tình trạng này gây tâm lý tiêu cực cho cả
người tiêu dùng và DN, làn tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội.
1.2.3. Hạn chế cạnh tranh bã những biện pháp hành chính cùa Nhà nước.
Những hành v i hạn chế cạnh tranh nêu trên thực chất là các biện pháp hạn
chế mang tính chất kinh tế, thường là những hành v i của các DN. Tuy nhiên
trong một chừng mực nào đó, chúng vẫn mang màu sắc hành chính. Những hạn
chế cạnh tranh mang tính chất hành chính bao gồm: những hành v i lạm dụng
quyền lực hành chính để hạn chế cạnh tranh của chính phủ và các cơ quan công
quyền. Những hành v i này không phải là những hoạt động quản lý kinh tế thông
thường do Chính phủ thực hiện nhằm duy t ì trật tự kinh tế- xã hội, và cũng
r
không phải là các chính sách kinh tế- xã hội m à Chính phủ sử dụng nhằm điều
tiết vĩ m ô nền kinh tế. Hiện nay, Trung Quốc vãn đang trong quá trình chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thỉ trường và chưa có sự chuyển đổi
hoàn toàn về chức năng quản lý kinh tế của Chính phủ. Hệ thống kinh tế cũ vẫn
để lại những tàn dư, trong đó có những rào cản về hành chính gây trở ngại lớn
'LegalDaily, 21/11/1996
Luật chống độc quyền và nền kinh tế thỉ trường- Vương Hiểu Diệp, N X B Pháp luật Trung Quốc, 1998, tr. 10-12
2
33