1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Quản trị kinh doanh >

Thực trạng cạnh tranh trong nền kinh tế Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.56 MB, 115 trang )


£í Hụ QUuỉ 7Ù0U



di t4-X4tyD-x&fìig



càng gia tăng và diễn ra ở cả lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Thị trường không tự

nó chứa đựng một cơ chế đảm bảo cạnh tranh tự do và lành mạnh. Trái lại, để

giảm áp lực cạnh tranh và tránh các rủi ro, các D N luôn phải cố gắng dùng m ọ i

biện pháp để giành độc quyền trên thị trường. Trong giai đoạn phát triển hiện nay

của Trung Quốc, k h i m à cơ chếthị trường vổn chưa hình thành đầy đủ thì hành vi

cạnh tranh không lành mạnh của các D N sẽ xuất hiện một cách thường xuyên.

Theo các chuyên gia kinh tế Trung Quốc thì hành vi cạnh tranh không lành mạnh

là hành v i cạnh tranh gây thiệt hại cho đối thủ một cách bất hợp pháp và làm tổn

hại đến hiệu quả của nền kinh tế . Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh

trong các văn bản pháp luật của Trung Quốc tương đối giống nhau, đó là: Những

hành vi cạnh tranh gian dối, lừa đảo, thiếu trung thực, nhằm kiếm lợi riêng cho

mình, trái với các quy định của pháp luật và đi ngược lại với những nguyên tắc

của XHCN, xâm hại l ợ i ích của Nhà nước, của các D N và người tiêu dùng trong

xã hội.

Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc ban hành ngày

2/9/1993 định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh: "hành vi cạnh tranh

không lành mạnh là chỉ hành vi của pháp nhân, tổ chức kinh tế, hoặc cá nhân trái

với quy định của Luật này, gây thiệt hại đế quyền và lợi ích hợp pháp của pháp

n

nhân, tổ chức kinh tế hoặc cá nhãn khác và làm ảnh hường đế trật tự kinh tế - xã

n

hội" (Điều 2). Luật này cũng đưa ra quy định cấm các hành v i cạnh tranh không

lành mạnh. Bao gồm: mạo nhận nhãn hiệu hành hoa đã đăng ký của người khác;

Sử dụng tên, hình thức đóng gói, nhãn mác giống với hàng hoa của DN khác

khiến khách hàng nhẩm lẫn; sử dụng tên DN hoặc tên sản phẩm của DN khác

gây nhấm lẫn; Đưa ra thông tin sai về chất lượng, nguển gốc hàng hoa (Điêu 5);

Có hành vi hôi lộ, đút lót đê có lợi thế khi mua bán hàng (Điều 8); Quảng cáo

sai sự thật (Điều 9); Xâm phạm bí mật kinh doanh của người khác (Điều 10); Có

hành vi bán hạ giá, hạ giá một cách phi lý để loại trừ cạnh tranh (Điều li); Gắn

thêm điều kiện phi lý với việc mua hàng (Điều 12); Gắn việc mua hàng với những



27



£í Hụ QUuỉ 7Ù0U



di t4-X4tyD-x&fìig



biện pháp thưởng có tính lừa đảo (Điều 13); Dèm pha đối thủ cạnh tranh (Điều

14); Câu kết khi dự thầu (Điểu 15)...'

Mặc dù đã có nhiều luật và quy định pháp lý về chống cạnh tranh không

lành mạnh, nhưng hệ thống khuôn khổ pháp lý và những quy định điều chỉnh các

hành v i cạnh tranh không lành mạnh chưa được hoàn thiện, thêm vào đó ý thức

của D N cũng như người dân chưa đựoc tốt nên dẫn đến nhiều hành v i cạnh tranh

không lành mạnh trong nền kinh tế Trung Quốc. Những hiện tượng như sản xuểt

và lưu thông hàng giả, quảng cáo sai, tung tin đồn, v i phạm quyền sở hữu trí tuệ,

dùng thủ đoạn không "sạch sẽ" để cạnh tranh diễn ra tương đối phổ biến. Riêng

trong năm 1996, tổng số vụ điều tra, xét xử các hành v i cạnh tranh không lành

mạnh của Uy ban quản lý Nhà nước về Công nghiệp và Thương mại ở Trung

Quốc (SAIC) đã lên tới 11388 trường hợp. Trong đó, 2705 trường hợp là mạo

nhận nhãn hiệu hàng hoa đã đăng ký của người khác, 1944 trường hợp sử dụng

tên, hình thức đóng gói, nhãn mác giống với hàng hoa của các D N nổi tiếng gây

nhầm lẫn, 1666 trường hợp sử dụng tên của D N hoặc tên sản phẩm của D N gây

nhầm lẫn...Trong số đó có 37 vụ có trị giá bị xâm phạm từ 300 000 đến 1000 000

NDT, 14 vụ lên tới hơn 1000 000 NDT (xem bảng 1). Những con số này còn tăng

hơn nữa trong năm 1997.

Có thể thểy rằng ngay cả khi luật chống cạnh tranh không lành mạnh đã

được ban hành thì các vụ việc liên quan đến hành v i cạnh tranh không lành mạnh

vẫn không ngừng gia tăng. Có thể kể ra đây l o vụ việc đáng lưu ý nhểt kể từ khi

Luật chống cạnh tranh không lành mạnh được ban hành năm 1993 :

2



i) Nhái nhãn hiệu "Pavetionic" của tập đoàn điện tử Rurner.

li) Nhái tên gọi, cách đóng gói và nhãn mác của sản phẩm của các công ty

nổi tiếng của công ty sản xuểt bia Lugougiao - Bắc Kinh.

iii) Nhận hoa hồng bểt hợp pháp của công ty cơ khí thuộc vụ viễn thông

Chengdu

iv) Quảng cáo sai sự thật của công ty T N H H điện tử Tianwang.



"Law against unfaừ Competition of the People's Republic of China" nfg/xgflfg/t20020420_34756.htm

1



1



www.sipo.gov.cn/sipo_English/



'TopTenC^á[reIỉieImplenienMkiicfIheLawfaCainlairigUnl^ODmpetiIĩon": www.wihuidac»infenglMi\a?hsWirỉix.asp



28



Mi &hị Qlhư 7ốna



di 14-X40-X&<11&



v) X â m phạm bí mật kinh doanh của công ty điện tử Jinyu.

vi) Khuyến mãi thiếu công bằng của công ty M ô tô Hainan Sundiro.

vii) Công ty điện công nghiệp Shandong Qihe lạm dụng việc thu phí sử

dụng điện làm hạn chế cạnh tranh trong hệ thống cung cấp điện nông thôn

viii) Lạm dụng việc thu phí của công ty cấp thoát nước thành phố Sichuan.

i x ) Cõng ty cung cấp ga và than Sanxi Taiyuan ép buộc khách hàng



mua



sản phẩm bếp ga của công ty và lạm dụng việc thu phí.

x) Chính sách bảo hộ địa phương đối với sản phẩm rượu ở thị xã Dawa và

thành phố Donggang thuộc tữnh Liaoning.

Đây chữ là l o trong số hàng chục nghìn vụ được đưa ra điều tra xét xử ở

Trung Quốc kể từ khi Luật chống cạnh tranh không lành mạnh được ban hành.

Những hành v i cạnh tranh không lành mạnh như trên không những làm tổn hại

đến lợi ích của người tiêu dùng, người sản xuất m à còn gây cản trở đến quá trình

hội nhập kinh tế Quốc tế của Trung Quốc, nhất là k h i giờ đây Trung Quốc đã trở

thành thành viên của WTO. Chính vì những hành v i cạnh tranh kiểu như vậy m à

cạnh tranh trên thị trường không những vận hành kém hiệu quả m à còn bị bóp

méo nghiêm trọng.



29



di f4-X4


£í QUỊ QUiư Tủoa



Bảng Ì: Tổng sô các vụ liên quan đến cạnh tranh không lành

mạnh được điều tra và xét xử bởi SAIC ở Trung Quốc trong n ă m 1996

Trong đó

Trường hợp



Tổng



Vụ từ loong300 ng NDT



Vu từ 300ngltr NDT



Tổng sô vụ



11388



121



37



14



24



3



3



17



3



-



17



5



1



17



6



1



8



-



-



59



_



_



1



228



3



_



1



Mạo nhận nhãn hiệu

hoàng hoa đã đăng

2705

kỷ của người khác

Nhái tên, quy cách

đóng gói, nhãn mác

1944

hàng hoa của DN khác

Sử dụng tên hoặc

tên riêng của DN

1666

khác gây nhầm lẫn

Hàng giả, đưa thông

2490

tin sai về chất lượng,

nguồn gốc hàng hoa

Xâm phạm bí mật

51

kình doanh

Bán phá giá

Bán hàng có thưộng

có tính lừa đảo



Vu trên 1 tr

NÓT



Quảng cáo sai sự thật 1427



20



3



2



Hối lộ, đút lót nhằm

giành điều kiện kinh 494

doanh có lơi



12



9



2



Dèm pha đối thủ



_



_



_



-



-



-



li



Gắn thêm những

điều kiện phi lý với 42

việc mua hàng

Câu kết khi dự thầu

Tổng giá trị các

vụ( tr N D T )



23



_



738,22



NguổnMiự.llwww.2W.69.106.l68ldoclChinalStatisticslcnsta97.html

(tháng 9/1997)



30



CÀ r4-X4ữV-3C&'}l&



Mê Ghi Qthư 7ủtM

1.2. Những hạn chế gây cản trở cạnh tranh



Những hạn chế gây cản trở cạnh tranh là một trong những mặt trái cùa

cạnh tranh, nó cùng với những hành v i cạnh tranh không lành mạnh làm thui

chột, bóp méo cạnh tranh trong nền kinh tế. Những hạn chế gây cản trở cạnh

tranh là những hành v i hoặc thỏa thuận có thể dẫn đến việc cản trở, hạn chê hoặc

biến dạng tính chất của cạnh tranh. Dưới đây là thực trạng những hạn chế gây

cản trở cạnh tranh ở Trung Quốc và ảnh hưồng tiêu cực của chúng đối với cạnh

tranh cũng như đối với kinh tế Trung Quốc

1.2.1. Câu kết gây cản trờ cạnh tranh

Càu kết gây cản trồ cạnh tranh là nhũng hành v i câu kết giữa các D N độc

lập về pháp lý dưới hình thức ký kết hợp đồng hoặc thoa thuận ngầm về giá cả,

sản xuất, thị trưồng nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh.

Kể từ k h i đưa cơ chế cạnh tranh vào nề kinh tí, ở Trung Quốc xuất hiện

n

ngày càng nhiều những hành v i câu kết gây cản trở cạnh tranh. Các hành v i này

chủ yếu diễn ra dưới hình thức áp đặt và điề chỉnh giá cả giữa các nhà cung ứng

u

với nhau nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh của mình. N ă m 1987, ồ Trung Quốc có

trưồng hợp 108 D N sản xuất dụng cụ điện hạ thế đã cùng nhau áp đặt hạn chế vê

giá đối với khoảng 260 mặt hàng. N ă m 1993, trong giai đoạn chiến tranh về giá

máy điều hoa nhiệt độ ở Nam Kinh, để đánh bại đối thủ cạnh tranh của mình, 8

cửa hàng lớn nhất của Nhà nước đã cùng nhau đưa ra mức giá cao nhất cho máy

điều hoa nhiệt độ '. N ă m 1994, 51 nhà cung ứng dịch vụ nhắn tin đã cùng nhau

đưa ra những hạn chế vềphí cung ứng dịch vụ . Hay sự kiện ngày 8/9 hoặc liên

2



minh giá 15 ngày, đăng trên báo Beijing Daily ngày 9/3/1996 cũng là một ví dụ

điển hình về câu kết hạn chế giá cả. Thồi gian gần đây dưới tác động mạnh mẽ

của cạnh tranh, các liên minh giá cả giữa các đối thủ cạnh tranh trở nên ngày

càng phổ biến. Tháng 5 năm 1999, 8 nhà sản xuất kinetkốp đã thành lập một liên

minh ở Bắc K i n h và đưa ra lệnh tạm ngưng sản xuất một tháng để ngăn chặn tình

trạng giảm giá của mặt hàng này trên thị trưởng . Tháng 3 năm 2000, các nhà

3



sản xuất lớn về máy điều hoa nhiệt độ dã thành lập một liên minh ở Nam Kinh

1



2



1



Nanjing Daily, số 22, tháng 12 năm 1993

Chinaõaily, 12/1/1995

Worker's Daily News Weekend, 20/4/2001



31



£í Hụ QUuỉ 7Ù0U



di t4-X4tyD-x&fìig



nhưng liên minh giá này đã thất bại chỉ một tháng sau đó. Gần đây, 9 nhà sản

xuất lớn võ tuyến màu, bao gồm: Không Đ ạ i , TCL và Song Vệ đã có cuộc gặp gỡ

nhằm hình thành một liên minh giá trong lĩnh vực vô tuyến màu...

Những liên minh về giá này rõ ràng đã có tác động không tốt đến lợi ích

cịa người tiêu dùng. Tuy nhiên một hành v i câu kết nữa đang diễn ra trong nền

kinh tế Trung Quốc với quy m ô lớn hơn, dưới sự chỉ đạo cịa các cơ quan Nhà

nước có liên quan, đó là "giá tự ấn định theo ngành " m à nhiều ngành ở Trung

Quốc đã thực hiện trong 1998. Hiện tượng "giá tự ấn định theo ngành" ở Trung

Quốc có thể coi là một hiện tượng câu kết có sự can thiệp hành chính vào cạnh

tranh giá cả giữa các DN. Tháng 8 năm 1998, Uy ban kinh tế thương mại Nhà

nước đưa ra một "quan điểm về yêu cầu thực hiện giá tự ấn định vối một số sản

phẩm công nghiệp" '. Quan điểm này đòi hỏi các nhà sản xuất một số sản phẩm

công nghiệp phải theo dõi mức hạn chế về giá t ố i thiểu do các hiệp hội thương

mại quy định. Những sản phẩm này gồm: kính, x i măng, ô tô, phương tiện vận

chuyển phục vụ nông nghiệp...Theo đó, nếu D N nào không thực hiện đúng như

quy định sẽ phải nộp phạt. N h ư vậy có thể thấy, trên thực tế "giá tự ấn định theo

ngành" là một loại liên minh giá bắt buộc bởi vì các D N phải bán sản phẩm cịa

mình theo giá đã được quy định m à không phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất cịa

bản thân DN. Đây là một hành v i câu kết ấn định giá bắt buộc rất phi lý, nó được

đưa ra dựa trên việc tính toán chi phí trung bình cịa ngành và làm hạn chế khả

năng cạnh tranh cịa những D N đạt hiệu quả kinh tế cao hơn so với mức trung

bình đó. Điều này cản trở sự phát triển đi lên cịa hiệu quả sản xuất và làm giảm

động lực vươn lên cạnh tranh cịa D N

1.2.2. Những thỏa thuận bắt buộc gãy cản trở cạnh tranh

Đ ể hạn chế cạnh tranh cịa các đối thị khấc, trong kinh doanh, các D N

thường tìm cách ký các thỏa thuạn về bán hàng ràng buộc, về hạn chế mức giá

bán lại hoặc các hạn chế khác để hạn chế quyền quản lý cịa các đối thị cạnh

tranh hoặc đẩy các đối thị cạnh tranh vào tình thế bất lợi.

Trong đời sống kinh tế Trung Quốc, những hạn chế cản trờ cạnh tranh theo

kiểu này thường xuất hiện trong những lĩnh vực như viễn thông, điện, cung cấp

'China Daily, 11/9/1998



32



£í Hụ QUuỉ 7Ù0U



di t4-X4tyD-x&fìig



nước, ga và các ngành phục vụ công cộng khác. Thực tế ở Trung Quốc cho thấy

đã có những hiện tượng hạn chế cạnh tranh theo kiểu này xảy ra như việc cơ

quan Bưu chính viễn thông ràng buộc những người sử dụng dỉch vụ của mình

phải mua các máy điện thoại do họ chỉ đỉnh '. Hay việc cơ quan điện lực yêu cầu

những người sử dụng điện phải mua công tơ do họ chỉ đỉnh. Cơ quan cấp thoát

nước cũng yêu cầu những người sử dụng dỉch vụ của họ phải mua thiết bỉ cấp

nước do họ chỉ đỉnh . Đây cũng là cách thức m à các công ty cung ứng ga ở

2



Trung Quốc sử dụng trong quá trình lắp đặt đường ống dẫn ga trong các khu dân

cư ở một số thành phố. Các công ty này yêu cầu những người sử dụng ga của họ

phải mua các bếp ga và nồi đun m à họ cung cấp với giá đắt hơn rất nhiều so với

những sản phẩm tương tự được bán trên thỉ trường. R õ ràng những hành v i kiểu

như vậy là một hình thức bán hàng ràng buộc, người tiêu dùng bỉ hạn chế trong

việc lựa chọn những sản phẩm m à họ mong muốn được sử dụng còn các D N thì

bỉ cướp mất khách hàng và hạn chế cạnh tranh trong khi sản phẩm của họ có chất

lượng và giá cả cạnh tranh hơn nhiều. Tình trạng này gây tâm lý tiêu cực cho cả

người tiêu dùng và DN, làn tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội.

1.2.3. Hạn chế cạnh tranh bã những biện pháp hành chính cùa Nhà nước.

Những hành v i hạn chế cạnh tranh nêu trên thực chất là các biện pháp hạn

chế mang tính chất kinh tế, thường là những hành v i của các DN. Tuy nhiên

trong một chừng mực nào đó, chúng vẫn mang màu sắc hành chính. Những hạn

chế cạnh tranh mang tính chất hành chính bao gồm: những hành v i lạm dụng

quyền lực hành chính để hạn chế cạnh tranh của chính phủ và các cơ quan công

quyền. Những hành v i này không phải là những hoạt động quản lý kinh tế thông

thường do Chính phủ thực hiện nhằm duy t ì trật tự kinh tế- xã hội, và cũng

r

không phải là các chính sách kinh tế- xã hội m à Chính phủ sử dụng nhằm điều

tiết vĩ m ô nền kinh tế. Hiện nay, Trung Quốc vãn đang trong quá trình chuyển

đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thỉ trường và chưa có sự chuyển đổi

hoàn toàn về chức năng quản lý kinh tế của Chính phủ. Hệ thống kinh tế cũ vẫn

để lại những tàn dư, trong đó có những rào cản về hành chính gây trở ngại lớn



'LegalDaily, 21/11/1996

Luật chống độc quyền và nền kinh tế thỉ trường- Vương Hiểu Diệp, N X B Pháp luật Trung Quốc, 1998, tr. 10-12



2



33



£í Hụ QUuỉ 7Ù0U



di t4-X4tyD-x&fìig



đến việc hình thành một môi trường cạnh tranh thực sự lành mạnh và hiệu quả ở

Trung Quốc.

Trong số những hạn chế mang tính chất hành chính đó có hiện tượng độc

quyền được hình thành từ lợi thế trong cạnh tranh của những D N thành lập bởi

các mệnh lệnh hành chính của các cơ quan Nhà nước. Những công ty này bao

gồm: (1) Các công ty vừa có chặc năng của một cơ quan hành chính, vừa có chặc

năng như một chủ thể kinh doanh; (2) Các tập đoàn lớn được giao nhiên vụ quản

lý ngành; (3) Các D N có sự liên kết với các Vụ hoặc các Bộ của Nhà nước. V ớ i

đặc điểm là có m ố i quan hệ chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước, nên các công ty

này thường được dành cho những đãi ngộ trong kinh doanh. Điều này tạo cho họ

khả nàng cạnh tranh hơn hẳn so với các D N khác, từ đó hình thành vị thế độc

quyền trong sản xuất, bán và mua nguyên vật liệu đối với một số sản phẩm trong

một số ngành. Đây được gọi là độc quyền theo chiều dọc hay độc quyền ngành

và được coi là hành v i "lạm dụng quyền lực để tiến hành kinh doanh" làm hạn

chế cạnh tranh '

.

Một hiện tượng độc quyển gây hạn chế cạnh tranh nữa cũng liên quan đến

các quyết định mang tính hành chính của cơ quan Nhà nước tồn tại ở Trung

Quốc là độc quyền theo chiều ngang hay còn gọi là độc quyền địa phương. Đây

là hiện tượng chính quyền một số địa phương ở Trung Quốc cấm việc một số sản

phẩm có nguồn gốc từ nơi khác xâm nhập vào thị trường địa phương mình, hoặc

cấm các nguyên liên sản xuất của địa phương mình d i chuyển sang các địa

phương khác. Hành động này là nhằm mục đích bảo hộ cho địa phương của

mình. Tình trạng này bắt nguồn từ quyết định phân tách quyền lực tài chính giữa

Trung Ương và địa phương trong cải cách kinh tế ở Trung Quốc .

Sự phân tách quyền lực này làm hình thành những l ợ i ích đối lập giữa các

địa phương và theo đó là sự xuất hiện của chế độ bảo hộ địa phương. Theo chế độ

này, mọi hoạt động trao đổi buôn bán giữa các địa phương ở Trung Quốc bị hạn

chế ngiêm trọng, hình thành tình trạng độc quyền của các D N trong phạm v i một

địa phương. N ă m 1994, xảy ra cuộc "chiến tranh b i a " ở vùng Tế Tây, tỉnh Hắc

Chính sách phát triển kỉnh tế- tập ỉ, Viện nghiên cứu quản lý kinh tếTrung Ương, NXB Giao thông vận tải, tr. 151.

Điều 8 Luật ngân sách nước cộng hoa nhàn dân Trung Hoa quy định: N h à nước thực hiện hệ thống tách biệt

giữa chính quyền Trung Ư ơ n g và địa phương.

1



2



34



£í Hụ QUuỉ 7Ù0U



di t4-X4tyD-x&fìig



Long Giang, kéo dài trong vòng 8 tháng. Trong cuộc cạnh tranh này, Chính

quyền trong tỉnh đã tiến hành rà soát và tịch thu 13 000 thùng bia đóng chai được

sân xuất tại thành phố K ý Tây. N ă m 1997, để ngăn chặn các loại phân bón hoa

học có nguồn gốc từ các địa phương khác tràn vào khu G ô Tích, chính quyền địa

phương nơi đây đã ban hành một lệnh đặc biệt: " Đ ể bảo hộ sản xuất phân bón

trong huyện, cấm các đơn vị hoặc cá nhân mua Amôniac Cacbon sản xuất ở các

địa phương khác. Những ai v i phạm quy định này sẽ bị tịch thu hàng hoa và thu

nhỵp bất hợp pháp, đổng thời phải chịu một số chế tài theo các quy định có liên

quan. Lãnh đạo chính quyền và các cơ quan hành chính có liên quan cũng sẽ bị

điều tra về trách nhiệm quản lý và trách nhiệm kinh tế " '. Tình trạng này cũng

xảy ra đối vái ngành công nghiệp xe hơi ở Trung Quốc. N ă m 1999, Thành phố

Thượng H ả i đã thông qua chính sách quỵ định: chỉ phải nộp 20 000 N D T thuế

trước bạ cho xe ô tô Santana, còn đối với các loại xe khác là 80 000 NDT. Ngay

sau đó tỉnh H ồ Bắc, là tỉnh sản xuất xe ô tô Citron đã áp đặt "phí hỗ trợ D N đặc

biệt khó khăn" là 70 000 N D T



cho việc mua một xe ô tô Santana đựơc sản xuất



ở Thượng H ả i .

2



N h ư vỵy, có thể thấy trong một thời gian khá dài, tình trạng độc quyển địa

phương đã bùng phát và trở thành cuộc chiến gay gắt giữa các địa phương. Đằng

sau cuộc chiến đó, chỉ có người tiêu dùng là phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực

của việc bị hạn chế sự lựa chọn hàng hoa, đồng thời cản trở sự phát triển và mở

rộng kinh doanh của các DN.

Một biện pháp hạn chế cạnh tranh nữa ở Trung Quốc là hiện tượng sáp

nhỵp ép buộc các DN. V ố i lý luỵn: "Phân phối của cải một các công bằng" và vì

lợi ích của toàn nền kinh tế, của toàn xã hội, Chính phủ yêu cầu một D N tham

gia vào một nhóm các D N hoặc một D N có hiệu quả kinh tế sáp nhỵp với một

D N không có hiệu quả. Việc làm này của Chính phủ là nhằm giải quyết các vấn

đề xã hội, tuy nhiên nó lại làm thui chột sức cạnh tranh của các D N làm ăn có

hiệu quả. H ọ phải gánh lấy gánh nặng nợ nần và những vấn đề của các D N làm

ăn thua lỗ.



1



Chính sách phát triển kinh tế - tập ì, viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, NXB Giao thòng vân tải 2004



ÍT. 152

1



www.abanet.org/antitrust/coramittees/intemational/international_word_docs/speech_to_aba_on_oct 5 dóc



35



Mi &hị Qlhư 7ốna



di 14-X40-X&<11&



Hiện nay phong trào sáp nhập các D N N N ở Trung Quốc diễn ra rất rầm rộ.

Tuy nhiên việc sáp nhập này không do các D N tự nguyện thực hiện m à lại do

Chính phủ quyết định với quan điểm cho rằng việc sáp nhập sẽ mang lại hiệu quả

kinh tế theo quy m ô . Thực tế thì nhờng cõng ty được hình thành từ sáp nhập các

D N chính là nhờng nhóm độc quyền ngành và trong điều kiện phân chia thị

trường mạnh mẽ ở Trung Quốc thì các độc quyền này sẽ có tác động tiêu cực đến

môi trường cạnh tranh và nền kinh tế Trung Quốc.

2. Sự cần thiết của m ộ t chính sách cạnh t r a n h t r o n g nền k i n h t ế T r u n g

Quốc.

Kết quả bước đầu của 25 năm cải cách kinh tế ở Trung Quốc là việc tạo

dựng khung khổ của nền kinh tế thị trường XHCN. Tháng 10 n ă m 1992, Đ ạ i hội

lần thứ X I V của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chỉ ra rằng: mục tiêu cải cách

thể chế kinh tế là xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN. Việc xây dựng hệ

thống này phụ thuộc vào nhiều điều kiện kinh tế - xã hội. Trong đó không thể

không kể đến tầm quan trọng của cơ chế cạnh tranh. Không có cạnh tranh thì

kinh tế thị trường không thể phát triển liên tục, và cũng không hình thành kinh tế

thị trường thực sự. Mặt khác, một trong nhờng mục đích của hệ thống kinh tế thị

trường X H C N m à Trung Quốc đang hướng tới là sử dụng đòn bẩy giá cả vào cơ

chế cạnh tranh trong việc phân bổ nguồn lực đến nhờng nơi có thể đem lại hiệu

quả kinh tế cao nhất. Cạnh tranh giúp sàng lọc ra nhờng chủ thể kinh tế ưu việt

trên thị trường, là động lực của tiến bộ kinh tế.

Thực trạng cạnh tranh như đã thấy ở trong nền kinh tế Trung Quốc đang

bóp méo vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tí, đồng thời làm thui chột dần

một yếu tố quan trọng nhất, là linh hổn của nền kinh tế thị trường nói chung và

của nền kinh tế thị trường X H C N m à Trung Quốc đang xây dựng nói riêng. N h ư

vậy cũng có nghĩa là làm ảnh hưởng đến mục tiêu của công cuộc cải cách kinh tế

của Trung Quốc. M ộ t mục tiêu quan trọng của cải cách kinh tế của Trung Quốc

là cải cách các DN, thiết lập một hệ thống các D N hiện đại, chuyển đổi cơ chế

quản lý của các DNNN, khuyến khích các D N gia nhập thị trường. Trong vấn đề

này, cạnh tranh đóng vai trò quyết định, cạnh tranh khiến bản thân các D N tự

vươn lên để đổi mới và phát triển, tự cải cách mình theo hướng ngày càng đạt

36



di 14-JC4WT)-OLQ


Mi


hiệu quả cao hơn. Cải cách D N thông qua tăng cường cạnh tranh là một biện

pháp đạt hiệu quả cao và nhanh nhất.

M ộ t vấn đề do nguyên nhân lịch sử và cơ cấu để lại cho công cuộc cải

cách xây dựng kinh tế thị trường X H C N của Trung Quốc là tình trạng độc quyền

của DNNN. Tinh trạng này đang cản trờ cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh trong

nền kinh tế Trung Quốc. Việc phá vỡ độc quyền của các D N N N có ý nghĩa rất

lớn: Thứ nhất, nó có l ữ i cho việc nâng cao hiệu quả kinh tế của các DN; Thứ hai,

nó có lữi cho việc cải thiện tình hình tài chính của Nhà nước; Thứ ba, nó có l ữ i

cho việc nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế vĩ m ô của Nhà nước đối với nền kinh

tế.

Chính sách cạnh tranh với mục tiêu cốt lõi là đảm bảo môi trường cạnh

tranh bình đẳng, lành mạnh, hạn chế và tiến tới xoa bỏ những biểu hiện cạnh

tranh tiêu cực và độc quyền trên thị trường. Đây là yếu tố rất cần thiết cho việc

thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề còn tồn tại

trong nền kinh tế Trung Quốc.



ni. Chính sách cạnh tranh của Trung Quốc

1. Quan điểm về xây dựng chính sách cạnh tranh của Trung Quốc

Nhận thức đưữc tầm quan trọng của việc xây dựng một chính sách cạnh

tranh đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường XHCN, Chính phủ Trung

Quốc hiện nay đang tiến hành những biện pháp rất tích cực như triển khai cải

cách các D N N N (DNNN), tách hoạt động của chính quyền khỏi họat động quản

lý kinh doanh, hỗ trữ các D N tư nhân và D N tập thể... Đây đều là những nỗ lực

của Trung Quốc nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.

Việc xây dựng chính sách cạnh tranh của Trung Quốc cũng phải tuân theo

nguyên tắc xây dựng chính sách chung, phải cân nhắc kỹ lưỡng về các điều kiện

kinh tế, chính trị, xã hội. Mục tiêu của chính sách cạnh tranh m à Trung Quốc xác

định trong dài hạn là '

:

Thứ nhất: Chuyển đổi hệ thống kinh tế kế hoạch truyền thống sang hệ

thống kinh tế thị trường. C ơ cấu lại các D N N N bằng cách liên doanh, sáp nhập



'http://www.chinabusinessreview.com/public/0505/bush.html



37



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

×