Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.16 KB, 115 trang )
36
Ngoài ra, cũng còn một lượng sữa bột nhập khẩu khác được gọi là “hàng xách
tay”. Một số doanh nghiệp nhập một hoặc một vài container hay vài tấn để phân phối
lẻ. Lượng hàng này không phải là hàng nhập lậu vì vẫn đóng thuế và làm đầy đủ các
thủ tục nhập khẩu, có nguồn gốc từ các nhà sản xuất sữa hàng đầu thế giới như Mead
Johnson, Abbott…Tuy nhiên, lượng sữa bột nhập theo phương thức này nhãn mác
không có tiếng Việt và không được bảo hành, đảm bảo chất lượng bởi nhà phân phối.
Loại này có số lượng không đáng kể, chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ trên thị trường.
Việc nhập khẩu các sản phẩm sữa bột nguyên hộp, chủ yếu là các sản phẩm sữa
bột cho trẻ em vào thị trường Việt Nam thông qua nhiều hình thức khác nhau đối với
từng hãng sữa. Một số hãng sữa chỉ thành lập văn phòng đại diện của hãng tại Việt
Nam để thực hiện việc khảo sát, thu thập thông tin nhằm phân tích, đánh giá về tiềm
năng của thị trường. Việc nhập khẩu và phân phối sản phẩm do doanh nghiệp trong
nước trực tiếp thực hiện. Văn phòng đại diện của hãng đó chỉ hỗ trợ cung cấp thông tin
thị trường và tư vấn cho nhà nhập khẩu và phân phối.
Bảng 1. Số liệu thống kê số lượng hộp và giá trị nhập khẩu sữa bột nguyên hộp
Năm
2007
2008
2009
Giá trị nhập khẩu (USD)
291.1919.521
322.045.44
86.707.639
Số lượng nhập khẩu (hộp)
7.081.553
8.306.197
2.921.595
(Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hả quan)
Trong những năm qua, giá trị nhập khẩu đối với sữa bột liên tục tăng và tăng mạnh.
Năm 2007 có 7.081.553 hộp sữa bột được nhập vào Việt Nam, đến năm 2008 đã tăng
lên 8.306.197 hộp, tăng khoảng 17,3%.
Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát và suy giảm kinh tế vào những tháng cuối năm
2008 dẫn tới những tháng đầu năm 2009 người dân thắt chặt chi tiêu và chuyển hướng
sang tiêu dùng các sản phẩm sữa bột sản xuất trong nước có mức giá thấp hơn nên
lượng sữa bột nguyên hộp nhập khẩu về Việt Nam đã giảm cả về số lượng và giá trị
nhập khẩu, đặc biệt tháng 1 năm 2009 lượng nhập khẩu thấp hơn cùng kỳ năm 2008 là
53%. Nhưng đến đầu tháng 3 khi có thông tin không chính thức về việc tăng thuế nhập
khẩu sữa của Bộ Tài chính khiến lượng cầu đột ngột tăng cao, đẩy kim ngạch nhập
khẩu sữa tăng đột ngột tăng 7,39 triệu USD so với trước đó, tương đương tăng lên 32%.
2.1.2.2.
Tốc độ tăng trưởng của ngành
Sữa là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành
thực phẩm ở Việt Nam. Trong những năm qua ngành sữa luôn duy trì được tốc độ tăng
37
trưởng khá cao và ổn định, tỉ suất lợi nhuận cũng tương đối cao. Theo đánh giá của
một số công ty nghiên cứu thị trường thì Việt Nam đang là quốc gia có ngành sữa tăng
trưởng khá cao so với nhiều nước khác trong khu vực.
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện đã
thúc đẩy thị trường sữa trong nước có sự tăng trưởng cao, với tốc độ bình quân khoảng
9,06%/năm từ năm 2000 đến nay. Tiêu thụ sữa bình quân đầu người tăng bình quân
7,85%/năm, từ 8,09 lít/người năm 2000 lên 14,81 lít/người năm 2008.
Bảng 2. Mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người giai đoạn 2000-2008
2000
Dân số (triệu người)
2005
2006
2007
2008
77,63
82,16
83,08
83,99
84,90
1004
1056
1239
1257
Tiêu thụ sữa nội địa (triệu lít quy 628
đổi)
Tiêu thụ bình quân (lít/người/năm)
8,09
12,22
12,71
14,75
14,81
(Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan)
Bảng 3. Mức tăng trưởng tiêu thụ sữa qua các giai đoạn
Tốc độ tăng trưởng
Đơn vị
2001-2005
2006-2008
2001-2008
Tiêu thụ sữa
%/năm
9,84
7,79
9,06
Tiêu thụ sữa bình quân đầu %năm
8,60
6,62
7,85
người
(Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan)
Như mô tả ở bảng trên, tổng lượng tiêu thụ sữa tại Việt Nam liên tục tăng mạnh
với mức bình quân trong cả giai đoạn 2001-2008 là 9,06%/năm. Mặt khác, tỉ lệ tăng
dân số hàng năm vào khoảng 1,2%, theo số liệu của tổng cục thống kê thì dân số năm
2011 là 87,84 triệu người, đứng thứ 13 thế giới. Tỷ lệ tăng GDP khoảng 5-7% mỗi
năm và tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn ở mức tương đối cao khoảng 29,3% (theo Công bố
kết quả điều tra dinh dưỡng năm 2010 và Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai
đoạn 2011-2020” của Bộ Y tế) .… là các yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của ngành
sữa. Chính vì vậy, có thể nhận định rằng nhu cầu về sữa còn tiếp tục gia tăng và tiềm
năng phát triển của thị trường sữa Việt Nam nhìn chung còn rất lớn.
38
2.1.2.3. Số lượng và thành phần doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên
thị trường
Hiện nay trên thị trường sữa bột nói chung và thị trường sữa bột trẻ em nói
riêng, số lượng doanh nghiệp tham gia là khá lớn, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất,
doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối, doanh nghiệp tham gia cả hai khâu trên, doanh
nghiệp ở nước ngoài hiện có sản phẩm bán tại thị trường Việt Nam…Theo điều tra của
Tổng cục Thống kê, năm 2008 toàn ngành sữa có 72 doanh nghiệp, không kể các
doanh nghiệp, công ty, cơ sở tư nhân quy mô nhỏ, tăng 59 doanh nghiệp so với năm
2000. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005, số lượng các doanh nghiệp ngành
sữa tăng bình quân 24,57%/năm, giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2008, tăng bình quân
23,86%/năm.
Có thể nhận thấy ngành sữa là ngành được tư nhân hóa sớm trong đó doanh
nghiệp sữa nhà nước có quy mô lớn là Vinamilk đã được cổ phần hóa.Các doanh
nghiệp còn lại đều ở dạng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp
thuộc khối kinh tế tư nhân. Đặc biệt, trong những năm gần đây nhiều hãng sữa bột mới
ví dụ Meji, XO, S26…nước ngoài đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam, góp phần
làm cạnh tranh trên thị trường trở nên sôi động hơn.
Nhìn một cách tổng thể có thể thấy các doanh nghiệp sữa, hãng sữa, các sản
phẩm sữa bột do nước ngoài sản xuất đang lấn át các doanh nghiệp trong nước. Trong số
các doanh nghiệp chủ chốt trên thị trường hiện nay chỉ có Vinamilk là doanh nghiệp
trong nước với nhãn hiệu sản phẩm trong nước, còn lại các tên tuổi lớn như Abbott,
Nestle, Mead Johnson…đều là các hãng sữa ngoại chiếm phần lớn thị phần trên thị
trường.
Mặc dù được liệt kê là các doanh nghiệp sản xuất sữa bột, tuy nhiên trong số
các doanh nghiệp sản xuất hiện tại chỉ Vinamilk là doanh nghiệp có đầu tư dây
chuyền sản xuất sữa bột từ sữa tươi. Các doanh nghiệp còn lại đều là các doanh
nghiệp nhập khẩu sữa bột nguyên liệu (sữa nền), nhập khẩu các vi chất và chỉ tiến
hành khâu trộn sữa và đóng gói thành phẩm để bán.
Các doanh nghiệp nhập khẩu sữa bột gồm các doanh nghiệp đầu mối thực hiện
nhập khẩu trực tiếp các sản phẩm sữa bột nguyên hộp từ các hãng sữa nước ngoài để
bán trên thị trường. Tiêu biểu trong nhóm này đó là Công ty TNHH Dược phẩm 3A
(nhập khẩu sản phẩm của Abbott), Công ty TNHH Mead Johnson Nutrition Việt Nam,
39
Công ty TNHH Danone Việt Nam (Dumex), Công ty TNHH Nestle Việt Nam (Nestle)
… Trong những năm gần đây, số lượng các doanh nghiệp nhập khẩu sữa thành phẩm
có nhiều biến động. Thực tế có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu tham gia thị trường
nhưng cũng đã có nhiều doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường do sức ép cạnh tranh.
Điều này cũng tương đối dễ hiểu do hàng quy định về việc nhập khẩu sữa thành phẩm
thời gian qua là tương đối mở và dễ dàng đối với doanh nghiệp.
Ngoài các cách phân loại trên, còn có thể phân chia các doanh nghiệp trên thị
trường sữa bột thành nhóm các doanh nghiệp chủ chốt, chiếm thị phần chủ yếu trên thị
trường và nhóm các doanh nghiệp nhỏ lẻ khác.Tính trên tổng thể toàn thị trường sữa bột,
số lượng doanh nghiệp chủ chốt có khả năng quyết định về lượng cung hay giá cả của các
sản phẩm sữa bột trên thị trường là không nhiều. Có thể kể tên một số doanh nghiệp lớn
chiếm thị phần đáng kể trên thị trường sữa bột Việt Nam là Abbott, Friesland Campina,
Mead Johnson, Vinamilk… Trong phần sau, báo cáo sẽ có các phân tích, nhìn nhận kỹ
hơn đối với nhóm các doanh nghiệp lớn này.
2.2.
Phân tích môi trường vĩ mô
2.2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Kinh tế Việt nam tăng trưởng khá ấn tượng trong những năm trở lại đây, thuộc
vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới. (Nguồn:
http://vef.vn/2012-02-17-viet-nam-co-trien-vong-tang-truong-dai-han-tot-nhat-tg)
Theo số liệu biểu đồ trên, GDP của Việt nam liên tục tăng ở mức từ 6-8%, do
đó GDP bình quân trên đầu người cũng liên tục tăng, đến năm 2007 đã đạt 200.6% so
với năm 2000. Năm 2008, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến
kinh tế tăng trưởng chậm hơn dự kiến. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009
thấp hơn tốc độ tăng 6,20% của năm 2008 nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế
họach. Kinh tế thế giới năm 2010 và 2011 mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung chưa thực sự ổn
định và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Do vậy tăng
trưởng kinh tế của nước ta trong hai năm này cũng tăng hơn 2008 và 2009 nhưng ko
đáng kể với 6.78% và 5.89%.
Bảng 4: Tăng trưởng kinh tế và GDP bình quân đầu người từ năm 2006 – 2011
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
2011
40
GDP Growth
8.20%
GDP bình quân 724.0
8.40%
6.20%
5.32%
6.78%
5.89%
835.1
1,047.9
1,068.3
1,173.5
1,361.3
2,607.5
2,799.9
2,944.7
3,143.0
3,354.8
đầu người (USD)
GDP bình quân 2,364.1
đầu người, PPP
(USD)
(Nguồn: http://www.advantageaustria.org/vn/events/iiv.pdf)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mức sống và nhận thức về sức khỏe càng được
cải thiện. Điều này hứa hẹ nhu cầu sữa ở Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng
trưởng mạnh trong thời gian tới và thị trường phát triển trong tương lai.
2.2.2. Dân số
Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới với 87,84 triệu người, có tốc độ
tăng trưởng dân số trung bình 1.1%/năm (giai đoạn 2006-2010). Việt Nam có mật độ
dân số trẻ, độ tuổi dưới 30 chiếm khoảng 54.1% (số liệu 2010) trên tổng dân số
(Nguồn: Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình), nhóm đối tượng này bị ảnh hưởng
nhiều bởi văn hóa Phương Tây, vì vậy có xu hướng tiêu thụ nhiều sản phẩm sữa. Với
đà đô thị hóa nhanh chóng (hơn 3%/năm), nhu cầu sữa ở Việt Nam được kỳ vọng sẽ
tiếp tục tăng trưởng mạnh trong thời gian tới.
Người tiêu dùng các sản phẩm sữa bột chủ yếu tại các thành phố lớn, có thu
nhập cao, có nhận thức về lợi ích của sữa hơn những người sống ở nông thôn. Tuy
nhiên, dường như hiện nay các chiến dịch quảng cáo và phân phối đang được nỗ lực
thực hiện cho các khu vực nông thôn khu vực chiếm 69,8% dân số cả nước, nhằm
nâng cao nhận thức về lợi ích của các sản phẩm sữa cũng như mở rộng nhu cầu tiêu
thụ tiềm năng.