Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.16 KB, 115 trang )
71
Qua bảng thống kê trên ta có thể thấy trong tổng số 100 khách hàng được
phỏng vấn thì có tới 86% khách hàng mong đợi chất lượng sản phẩm của các hãng sữa
ngày càng được nâng cao hơn, đứng thứ hai là mong muốn sản phẩm sữa bột sẽ được
điều chỉnh giá cả sao cho hợp lý hơn với 51% khách hàng mong muốn như vậy, tiếp
theo là nâng cao uy tín công ty, tăng cường khuyến mại, cải tiến mẫu mã, quảng cáo và
chăm sóc khách hàng.
2.5. Đánh giá chung về sức cạnh tranh của sản phẩm sữa bột Việt Nam
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có những nhà cung cấp ở phía sau hỗ trợ họ
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vinamilk cũng cần có nguồn cung cấp về
nguyên vật liệu và trang thiết bị để sản xuất.Xét về quy mô ngành chăn nuôi bò sữa,
95% số bò sữa được nuôi tại các hộ gia đình, chỉ 5% được nuôi tại các trại chuyên biệt
với qui mô từ 100-200 con trở lên(VEN, 2009). Điều này cho thấy người dân nuôi bò
tự phát, dẫn đến việc không đảm bảo số lượng và chất lượng và làm giảm khả năng
thương lượng của các nhà cung cấp trong nước. Việc thiếu kinh nghiệm quản lý, quy
mô trang trại nhỏ, tỷ lệ rối loạn sinh sản và mắc bệnh của bò sữa còn ở mức cao…
khiến người nông dân nuôi bò sữa rất bất lợi. Do đó, các công ty sữa trong nước nắm
thế chủ động trong việc thương lượng giá thu mua sữa trong nước.
Do hơn 70% đầu vào là nhập khẩu, giá sữa bột thế giới sẽ gây áp lực lên ngành
sản xuất sữa Việt Nam. Trong thời gian tới, giá sữa bột có xu hướng tăng. Đồng thời,
nguồn cung từ các nước xuất khẩu chủ yếu sang Việt Nam như New Zealand, Úc…
tăng nhẹ trong khi cầu nhập khẩu từ các nước châu Á tăng lên, đặc biệt là Trung Quốc.
Do đó, việc kiểm soát được các hợp đồng mua sữa bột, cả về số lượng và chất lượng là
rất quan trọng đến năng lực cạnh tranh của các công ty. Tuy nhiên, với diễn biến giá
sữa khó nắm bắt như những năm gần đây, các nhà sản xuất trong nước vẫn ở trong thế
bị động khi phán ứng với diễn biến giá cả nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Nguồn nguyên liệu đóng vai trò quan trọng, là nhân tố quyết định chất lượng
sữa bột, do đó việc lựa chọn nhà cung ứng nguồn nguyên liệu rất quan trọng. Trong
thời kì hội nhập nền kinh tế thế giới, Việt Nam có được thuận lợi khi có thể hợp tác
với các nước trên thế giới.Ngành mặt hàng sữa bột không chịu áp lực bởi bất cứ nhà
phân phối nào. Đối với sản phẩm sữa bột, khi giá nguyên liệu mua vào cao, các công
ty sữa có thể bán với giá cao mà khách hàng vẫn phải chấp nhận. Do vậy mặt hàng sữa
bột có thể chuyển những bất lợi từ phía nhà cung cấp bên ngoài sang cho khách hàng.
72
Năng lực thương lượng về giá của người mua thấp. Tuy nhiên, trên thị trường hiện tại
các sản phẩm sữa bột của nước ngoài rất đa dạng và có thể thay thế cho nhau, và yếu
tố giá cả không phải là quan trọng nhất đối với người tiêu dùng khi lựa chọn các sản
phẩm sữa. Các công ty phải cạnh tranh với nhau bằng chất lượng, sự đa dạng của sản
phẩm, sức mạnh thương hiệu… rồi mới đến cạnh tranh bằng giá cả.
Các sản phẩm thay thế của mặt hàng sữa bột hiện nay chủ yếu vẫn là các sản
phẩm như sữa nước và sữa đặc. Tuy nhiên, các sản phẩm sữa khác nhau thì có các
chức năng khác nhau để đánh vào các đối tượng tiềm năng khác nhau. Đặc biệt đối với
sản phẩm sữa bột hay được gọi là sữa công thức, nên khả năng bị thay thế bằng các
sản phẩm khác này là rất thấp. Do vậy sản phẩm sữa bột ít chịu rủi ro từ sản phẩm thay
thế.
Hội nhập kinh tế thế giới, ngoài những thuận lợi, chúng ta cũng gặp phải những
khó khăn khi mà ngày càng nhiều sản phẩm có chức năng, mẫu mã khác đang dần
thâm nhập vào thị trường trong nước, khiến cho sữa bột Việt nam ngày càng phải cạnh
tranh gay gắt hơn. Về mặt phát lý thì việc tham gia sản xuất, kinh doanh trên thị
trường sữa bột không có trở ngại nào đáng kể.Theo đánh giá của nhiều chuyên gia
trong ngành sữa, các quy định của pháp luật hiện hành đã tạo điều kiện tương đối tốt
cho việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới.Để cản trở sự thâm nhập thị
trường của các đổi thủ, các doanh nghiệp hiện tại đang tạo ra các rào cản ngăn chặn
các đối thủ. Rào cản chiến lược này bao gồm:
− Sản xuất, cung ứng ra thị trường một khối lượng lớn hàng hóa, thông thường
là vượt quá mức cầu hiện tại của thị trường.
− Các hợp đồng độc quyền với các nhà cung cấp hoặc với các nhà phân phối.
− Một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp có thể hành động dưới hình
thức bán dưới giá thành toàn bộ hoặc bằng một cách khác trong trường hợp có đối thủ
cạnh tranh mới gia thị trường.
Điều này đã làm giảm cơ hội tham gia nhập khẩu và phân phối của các doanh
nghiệp muốn gia nhập thị trường, số lượng các doanh nghiệp có thể nhập khẩu và phân
phối các sản phẩm sữa bột nguyên hộp nhập khẩu bị hạn chế tối đa.
Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 2008 toàn ngành sữa 72 doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh với 230 nhà nhập khẩu, thị trường sữa đang có sự cạnh
tranh gay gắt giữa các sản phẩm trong sữa trong nước và nhập khẩu. Các đối thủ nước
73
ngoài chủ yếu của sản phẩm sữa bột Việt Nam hiện nay chủ yếu là Abbott, Mead
Johnson, Dutch Lady, Anlene, Dumex,…Hiện sữa bột nhập khẩu chiếm thị phần trên
thị trường khá cao (khoảng 72%), sữa bột trong nước sảm xuất có thị phần chiếm ít
hơn là Vinamilk (20%), Nutifood (5%) và khoảng dưới 10% doanh nghiệp nhỏ trong
nước không có thương hiệu nhập về đóng gói.
Cuộc đua tranh quyết liệt của thị trường sữa bột giữa các thương hiệu trong
nước và nước ngoài đã diễn ra trong nhiều năm nay, nhưng các thương hiệu sữa ngoại
luôn chiếm ưu thế hơn.Với tiềm năng và nhu cầu tiêu thụ rất lớn về sữa các loại tại
Việt Nam nên dẫn đến đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều và gay gắt. Các nhà đầu tư
nước ngoài ngày một đổ xô vào Việt Nam để triển khai hoạt động kinh doanh.Đó là
thách thức lớn của các doanh nghiệp sữa Việt Nam trong việc cạnh tranh dành thị
trường sữa bột.
74
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA SỮA
NỘI SO VỚI CÁC HÃNG SỮA NGOẠI TẠI THÀNH PHỐ HUẾ
3.1. Định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa và sản phẩm
sữa bột Việt Nam
3.1.1. Quan điểm phát triển
Quyết định số 3399/QĐ-BCT của Bộ Công thương ban hành ngày 28 tháng 6
năm 2010 về quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2025 đã đưa ra những quan điểm và định hướng cụ thể nhằm
xây dựng ngành công nghiệp sữa Việt nam phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ từ
sản xuất nguyên liệu đến thành phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh để chủ động hội
nhập với nền kinh tế toàn cầu, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và khả năng
xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực và trên toàn thế giới.
Với quan điểm phát triển ngành công nghiệp sản xuất sữa trên cơ sở phát huy
lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương, phát huy hết năng lực chế biến sẵn có,
Nhà nước khuyến khích huy động tiềm lực của mọi thành phần kinh tế vào phát triển
ngành gắn với phát triển vùng nguyên liệu. Có thể thấy đàn bò sữa nước ta phát triển
trên tất cả các vùng sinh thái của Việt Nam, tuy nhiên khu vực Đông Nam Bộ vẫn là
vùng tập trung số lượng bò lớn nhất do có những điều kiện địa lí thuận lợi phù hợp với
việc chăn nuôi bò sữa. Vì vậy cần phải tận dụng lợi thế này cùng với những biện pháp
khuyến khích lao động và mở rộng quy mô đàn bò sữa để nguồn nguyên liệu cung cấp
có thể đáp ứng được nhu cầu của các nhà sản xuất và người tiêu dùng. Bên cạnh đó,
quy trình sản xuất sữa cần phải bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao giá trị
dinh dưỡng, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường sinh thái.
Trên cơ sở áp dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến, Nhà nước đề ra quan điểm toàn
ngành cần phải không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng và
đa dạng hóa sản phẩm, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới với chất lượng cao để đáp
ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Gia nhập WTO vừa là cơ hội vừa là thách thức
với nền kinh tế Việt Nam, mặc dù trong nhiều năm qua doanh thu ngành sữa vẫn liên
tục tăng bất chấp hiệu ứng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, các DN
Việt Nam đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường nội địa, nhưng không thể phủ
nhận các nhãn hiệu sữa trong nước đang chịu sự cạnh tranh rất gay gắt từ các nhãn
75
hiệu nước ngoài và ở mảng sản phẩm sữa bột các doanh nghiệp nội địa đang đứng
trước nguy cơ đánh mất thị trường tiêu dùng của chính mình. Do đó doanh nghiệp Việt
Nam cần phải đề ra những chiến lược nâng cấp sản phẩm theo hướng nâng tầm chất
lượng, cải tiến mẫu mã, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến nhằm nâng cao năng lực của
sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Do quy mô đàn bò sữa chưa đủ lớn để cung cấp sản lượng sữa đáp ứng được
nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, ngành sữa Việt Nam mỗi năm đều phải tốn một khoản
chi phí rất lớn trong việc nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ nước ngoài để sản xuất các
mặt hàng sữa trong nước, đặc biệt là sữa bột. Trước tình hình đó, Nhà nước khuyến
khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển đàn bò sữa để tăng dần tỷ lệ tự
túc nguyên liệu trong nước, giảm dần tỷ lệ sữa nguyên liệu nhập khẩu.
3.1.2. Mục tiêu phát triển
Hướng đến mục tiêu phát triển toàn ngành sữa nói chung theo hướng hiện đại,
đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu đến thành phẩm, nâng cao năng lực cạnh trạnh của
các DN trong nước ở tất cả các mặt hàng, trong hội thảo “Quy hoạch phát triển ngành
sữa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2025”, Bộ Công thương đã đặt ra những mục
tiêu cụ thể trong chiến lược phát triển ngành, đặc biệt hai vấn đề quy hoạch đàn bò sữa
và tập trung vào công nghiệp chế biến là hai yếu tố được đặt lên hàng đầu. Theo đó
mục tiêu phát triển của ngành sữa được định hướng như sau:
Bảng 23: Quy hoạch phát triển các sản phẩm sữa giai đoạn 2015 – 2025
Chỉ tiêu
Đơn vị
2010
2015
2020
2025
Sữa thanh, tiệt trùng
Triệu lít
480
780
1150
1500
Sữa đặc có đường (sữa hộp)
Triệu hộp 377
400
410
420
Sữa chua
Triệu lít
86
120
160
210
Sữa bột các loại
1000 tấn
47
80
120
170
Bơ
Tấn
6
8
10
13
Pho mát
Tấn
72
84
97
107
Kem các loại
1000 tấn
13
20
27
38
Các sản phẩm sữa khác (bột
1000 tấn
dinh dưỡng)
22
44
65
83
Sữa thanh tiệt trùng vẫn là nhóm hàng chủ lực của ngành sữa với chỉ tiêu tăng
trưởng trên 30% trong năm 2025 so với năm 2010. Nhóm mặt hàng sữa bột các loại