Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.23 KB, 120 trang )
72
Công Trứ là người mang “sức cường tráng của cả một nòi giống” [68. tr 236]
với những việc “long trời lở đất”, và là tay ăn chơi tài hoa. Đã một lần sinh ra
trong trời đất, ai cũng hằng mong “phải có danh gì với núi sông” (Nguyễn
Công Trứ). Hiếu danh khác với hư danh: “Chỉ hư danh mới là cạm bẫy nguy
hiểm, còn hiếu danh lại là một động cơ tâm lý tích cực, thúc đẩy sự nghiệp
cống hiến của một con người như món quà tặng mang tên của chính mình, tức
là sự nổi tiếng. Gã hư danh tìm vinh quang giống như người đi tìm lượm của
rơi, còn người - nổi - tiếng làm ra cái tên của mình bằng chất liệu nhọc nhằn
của người thợ xây cất lâu đài” [68, tr.90]. Do đó, khát vọng lưu danh của con
người là chính đáng. Người Trung Quốc dùng hình ảnh dấu chân chim hồng
trên tuyết, còn người phương Tây dùng hình tượng đôi dép Empédocle để chỉ
danh tiếng: “Trước khi trở về với hư vô, vẫn cần phải để lại dấu vết của mình
trên mặt đất, chính là tên tuổi của mình” [71, tr.130]. Khát khao vậy nhưng
hành trình của con người vẫn là đường mòn trở về với cát bụi, và tên tuổi của
bị phủ mờ bởi thời gian và không gian đến nỗi không ai còn nhớ mặt đặt tên có
chăng chỉ là số ít. Xã hội phong kiến đã lùi xa, nhiều vua chúa, quan lại tên tuổi
cũng bị lu mờ đấy thôi, và điều còn lại là: Nguyễn Trãi với lý tưởng nhân
nghĩa đã khiến ông mạnh hơn cái chết; Nguyễn Huệ với lý tưởng anh hùng và
“một sức suy nghĩ rất mới, bây giờ vẫn mới” [70, tr.225]; Nguyễn Công Trứ
với trí nam nhi “mang đầy đủ dấu ấn của giấc mơ hùng tráng của thời đại ông
lớn lên” [70, tr.71] và giấc mơ ấy vẫn vi vút cùng gió thông gieo giữa bầu trời
vĩnh hằng… Họ là những con người đã sống hết mình, thậm chí đánh đổi cả
tính mạng của mình để vẹn toàn lý tưởng đã chọn khi huy sinh vì dân, vì nước.
Đọc Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về những con người lưu danh ở
đời, ta gặp một điểm chung giữa họ là tất cả đều có “một ý niệm rỗng không về
vật chất” [71, tr.139]: Nguyễn Trãi sau những năm tháng hào hùng cũng quay
về với cuộc sống thanh bần: “làm bạn với người đánh cá, lao động với thôn
73
dân, thả rau muống ở ao nhà, cuốc đất chùa ươm mồng tơi, đốt củi bách pha
trà và nấu canh bằng trái núc nác…” 70, tr.71]; Nguyễn Công Trứ đến khi về
hưu cũng chỉ có “hai bàn tay sạch đến không chỗ nương thân, cụ phải sống
nhờ ở chùa trong núi Hồng Lĩnh, sau đó về làng dựng ba gian nhà tre nghèo
xác” [70, tr.73]; Hoàng Diệu thì “khi mất cũng không để lại tài sản gì khác
ngoài mấy thứ vũ khí chiến đấu lưu truyền cho con cháu” [69, tr.453].
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng mỗi cuộc đời của mỗi con
người là một hành trình không bao giờ ngưng nghỉ. Sống trên đời không phải là
“yên nghỉ” mà luôn luôn là sự vận động qua muôn nẻo đường đời, là hành trình
lo âu không ai biết trước ngày mai sẽ ra sao, chỉ biết rằng anh phải “lên đường”
với một dòng sông đang chờ ở phía trước. Thế nhưng dù sao, sự sống vấn là
đáng quý, là bài ca muôn thuở mà mỗi người xuất hiện trên cõi đời đã, đang và
sẽ viết dài thêm đến bất tận… Còn “đáng buồn nhất là cái chết (Tử)” [71,
tr.17]. Nhà văn đã cho ta thấy nhiều cuộc đời - sự sống – cái chết: bị triều đình
nhà Lê đưa “pháp trường bằng lệnh Xé Xác” [70, tr.193], nhưng Nguyễn Trãi
“vẫn mới mẻ ngày sau… trở thành một con người mạnh hơn cái chết” [70,
tr.208]; Nguyễn Huệ cũng là người vì dân với những suy nghĩ luôn mới, vĩnh
hằng cùng đất nước, đất trời… Đặc biệt, những năm tháng kháng chiến chống
xâm lược hào hùng của dân tộc, đã có biết bao cái chết hoá thành bất tử. Trong
chuyến về thăm lại làng Trà, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xúc động trước nấm
mồ của người cách mạng với cái chết thảnh thơi: “Thảnh thơi vì trong hành
động quyết định sau cùng, anh đã không hề tính đến hết một sự bù đắp nào
khác…. Thảnh thơi không phải như sự giải thoát của linh hồn, mà như sự bay
đi của ánh sáng” [70, tr.156]. Đó cũng là cái chết thảnh thơi của biết bao
người đã không tiếc xương máu của mình. Họ về ngủ lại trong lòng đất mẹ bất
tử như vầng sáng vĩnh hằng trên bầu trời đầy sao chiếu sáng với thông điệp gửi
đến hậu thế: “phải sống như thế, sống như chưa bao giờ biết đến sự hủy diệt,
74
như là con người không thể chết, và đầy tự giác về cái lẽ tồn tại của mình” [70,
tr.156].
Sự lựa chọn của Ưng Bình Thúc Giạ trong ba lần trở về lớn lao của một
đời người cũng là một tư tưởng như vậy; sự lựa chọn của Ngô Kha mà theo ông
là sự lựa chọn mang tính chung thẩm của người lính ra trận, có thể bị hủy diệt
nhưng không bao giờ thất bại, Ngô Kha là chàng thi sĩ cô đơn kiêu hãnh “cúi
nhìn chính mình”, nhưng không hoà nhập với phong trào đấu tranh yêu nước và
đã trở thành “người hành động” và “thơ đã là cây đàn Lya trong tay chàng
Orphée đi giữa đám đông, cất cao tiếng hát gọi mặt trời” [70, tr.283]. Hình
như chọn lựa trước hết đã là một ám ảnh trong tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc
Tường, như ông đã viết khi bàn về thể kí: trước khi chảy qua ngòi bút, những
điều ấy đã chảy qua trái tim nhà văn như một dòng máu. Bởi vậy, trong những
năm đất nước chưa đổi mới, ông đã nêu tấm gương của Đào Duy Từ "đấu tranh
để bảo vệ quyền tự do thương mại của người dân". Trong những năm tham
nhũng còn là một chứng bệnh nan y của đất nước, ông đã viết về "từ thụ yếu
quy" của Đặng Huy Trứ như một lời cảnh tỉnh. Những năm sau chiến tranh,
ông đã nói về người anh hùng Tây Sơn với lời nhận định: "Khát vọng lớn ở đời
của Nguyễn Huệ không phải là chiến công mà là chính trị, làm sao xây đắp nên
một nền đại chính để nhân dân sống có hạnh phúc".
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường không nhìn vào cõi xưa với thái độ
của người hiếu cổ hay người phục cổ, càng không có ý mượn xưa để nói nay;
điều anh muốn đạt tới, và ông đã đạt tới, là tìm cho ra dòng chảy của sự sống
đã nối liền những con người Việt Nam từ xa xưa cho đến bây giờ. Đó là điều
mà suốt cuộc đời cầm bút ông đã hướng tới, với tất cả tâm nguyện và hoài bão
của chính nhà văn. Như Hoàng Phủ đã đúc kết: "Một chữ tâm có sức chứa
đựng tất cả". Chữ tâm, mà giờ đây được dùng quá nhiều đã trở thành một thuật
ngữ sáo mòn, nhưng dưới ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn luôn trọn vẹn
75
ý nghĩa chân thật của nó, như ông đã định nghĩa một cách giản dị và đầy đủ:
"Đấy là một tấm lòng tốt muốn đem tâm hồn mình làm quà tặng". Những bài kí
văn hóa này, cũng như cả bốn tập sách của ông thật xứng đáng được đón nhận
với tất cả lòng trân trọng, tin yêu bởi vì đó là món quà một đời mà tác giả đã
gửi đến chúng ta.
Có thể nói, Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghi lại một cách tường tận,
chân thực, sinh động những nhân vật lịch sử có thực trong đời sống xã hội Việt
Nam. Đó là những nhân vật có tên tuổi lịch sử, họ đã đem tài năng và trí tuệ
phục vụ dân tộc, trí tuệ ấy góp phần làm phong phú thêm cho nền văn hoá bản
địa.
2.3.2. Chân dung các văn nghệ sĩ
Bước vào Đổi mới, nền văn học của nước ta lại chuyển động mạnh mẽ về
nhiều mặt. Cùng với sự cởi mở hơn về quan niệm văn chương, sự tự do dân chủ
hơn trong không khí sáng tác và tiếp nhận, đời sống văn học đã phát triển trên cả
bề rộng lẫn chiều sâu. Lúc này nhà văn có thể nói lên tất cả những gì thuộc về
con người, đi đến tận cùng giới hạn của tâm hồn và số phận nhân vật với rất
nhiều phong cách - bút pháp nghệ thuật khác nhau.
Nổi bật lên những trang bút ký, hồi ký thời kỳ Đổi mới là những chân
dung và số phận văn chương trong quá khứ cũng như trong hiện tại; là những
trải nghiệm thấm thía và những suy tư sâu lắng về nghiệp, về nghề…
Trên trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc thường gặp những
nghệ sĩ tài tử, tài hoa, mang nhiều uẩn khúc trong tâm tưởng hoặc trong cuộc đời
và đôi khi có những nét “tương đồng, tương liên” với tác giả. Đó là Nguyễn Trãi,
Cao Bá Quát, Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Trịnh Công Sơn, Văn Cao, Đinh Cường,
Bùi Giáng, Phùng Quán, Điềm Phùng Thị… - một dãy lấp lánh những khuôn
mặt ẩn hiện trong dòng lịch sử. Họ có thể là “người của thời xưa” hay “người
của thời nay”, song tác giả luôn viết về họ với một niềm yêu kính thiêng liêng
76
như viết về những người của cõi bất tử - “người của muôn thời”! Suy nghĩ về
cuộc chiến đấu bền bỉ vì “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi, ông khẳng định: “sự lựa
chọn đó là quá trình tự phá vỡ bản thân và rốt cuộc sự có mặt của ông vẫn mới
mẻ cho đến ngày sau, làm cho ông trở thành một con người mạnh hơn cái chết”
[70, tr.208- 269]. Viết về Văn Cao - người nghệ sĩ đa tài mà ông đặc biệt dành
tình cảm, câu chữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như “hát” lên bằng những
thanh âm diệu vợi thanh thoát và “cùng tông” với Suối mơ, Thiên Thai…: “cây
Aleo dichotoma trên đỉnh núi đá Vọng Phu ở Lạng Sơn, cứ tự chia hai đến cùng
trong hành động sống, hay nói cách khác, trong quá trình từ thể hiện bản thân
mình nhằm đạt tới những chiều hướng khác nhau giữa những giới hạn vốn dĩ
chật chội như một đời người và ở khắp mọi nơi của hiện hữu. Văn Cao là một
con người luôn tìm cách phá vỡ Giới Hạn” [70, tr.208- 269]. Phùng Quán cũng
được hiện lên trong các trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người có
cốt cách nghĩa khí, luôn mang trong mình khát vọng, vì sự thật cũng là con
người đời thường bình dị với đôi bàn chân to “mang từ trẻ cho tới khi yên nghỉ
một đôi dép ngoại cỡ dày cộp nặng đến nỗi như phải đếm từng bước đi” [70,
tr.273]. Bùi Giáng là một thi sĩ tài hoa mà cuộc đời chìm trong những biển dâu
ngàn mơ mờ ảo đến “quên cả mình” với bức chân dung khắc khổ in đậm nét tài
hoa bi kịch đến xót xa. Nhà thơ Vĩnh Mai với dáng người cao lênh khênh,
“gương mặt nhân hậu và cương nghị đúng nét Quảng Trị” [70, tr.321- 322] dễ
xúc động, chân thành, mộc mạc. Nguyễn Trọng Tạo là nhà thơ ham chơi, cả
cuộc đời ngao du “ta đã qua bao nhiêu nẻo đường không tên của trần gian” rồi
có khi lại lầm lũi tìm về một cõi nhớ với giọt nước mắt âm thầm, cô đơn…
Đặc biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành cho Trịnh Công Sơn cả một
“hành tinh yêu thương”. Qua đó ta thấy một bức chân dung phức hợp về người
nhạc sĩ tài hoa này. Trước hết, Trịnh Công Sơn “là sứ giả đích thực của nhà văn
hoá Huế”. Tâm hồn Huế đã thẩm thấu và ngấm sâu vào trong máu, trong từng