1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

QUA NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.23 KB, 120 trang )


87



Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ toàn dân tộc

đã được nghệ thuật hoá. Ngôn ngữ đã được hình thành, chọn lọc, gọt giũa, trau

chuốt… và đặc biệt ngôn ngữ ấy phải đem lại cho người đọc những cảm xúc

thẩm mỹ, xúc cảm được nhận biết thông qua những rung động tình cảm. Điều

đó khác hẳn với những xúc cảm của khoa học- những rung động thông qua suy

lý và chứng minh.

Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Bất kỳ

một tác phẩm văn học chân chính nào cũng đều được viết hoặc kể bằng lời. Ở

phương diện thể loại văn học có lời thơ, lời văn. Ở phương diện chức năng và

các thành phần cấu tạo của lời văn nghệ thuật có lời tác giả, lời nhân vật, lời

trực tiếp, lời gián tiếp… nói chung là lời văn. Lời văn là hình thức ngôn từ

nghệ thuật của tác phẩm văn học. Lời văn thực chất là một dạng ngôn từ tự

nhiên đã được nhà văn tổ chức theo quy luật nghệ thuật về mặt nội dung,

phương pháp, thể loại, được đưa vào hệ thống giao tiếp khác mang chức năng

khác (không phải giao tiếp thông thường như lời nói thông thường).

Ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày của con người không phải là ngôn

từ nghệ thuật, bởi ngôn từ nghệ thuật là ngôn từ được lựa chọn, được tổ chức

thành văn bản cố định, sao cho nói một lần mà có thể giao tiếp mãi mãi. Ngôn

từ nghệ thuật có chức năng đặc biệt trong việc giúp nhà văn hình thành nên

tác phẩm nghệ thuật của mình. Đối với mỗi nhà văn chân chính thì việc lựa

chọn ngôn từ sao cho hợp lý với phong cách nghệ thuật của mình là một điều

rất quan trọng, bởi thông qua ngôn từ nghệ thuật mà nhà văn đó biểu hiện

trong tác phẩm người đọc sẽ dễ dàng nhận ra những chân dung văn học. Tuy

nhiên việc lựa chọn ngôn từ nghệ thuật cho những tác phẩm văn học của mình

lại không phải là một việc mà nhà văn đó có quyền tự quyết định. Ngôn từ

nghệ thuật của mỗi nhà văn do yếu tố văn hoá cá nhân, tài năng nghệ thuật,

môi trường sống và mục đích sáng tác chi phối. Ngôn từ nghệ thuật ghi dấu



88



ấn của cá nhân nhà văn vào trong từng câu chữ. Văn hoá chi phối đến phong

cách nghệ huật của nhà văn và vì vậy chi phối đến ngôn từ nghệ thuật của nhà

văn đó.

Việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật là một phương diện quan trọng giúp

nhà văn sáng tác, qua đó làm phong phú thêm cho ngôn từ nghệ thuật và ngôn

ngữ đời sống. Việc tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật của nhà văn thể hiện trong tác

phẩm giúp người đọc có trong tay một chìa khoá quan trọng để khám phá thế

giới nghệ thuật sáng tác cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn đó.

3.1.2. Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều

biện pháp tu từ so sánh, ần dụ, nhân hóa

Với chất liệu ngôn ngữ rất Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ lại địa

đồ của dòng sông Hương mà đặc điểm địa lý đầu tiên là nó thuộc về một

thành phố duy nhất - thành phố Huế. Khởi nguồn từ rừng già, vượt qua những

cánh rừng Trường Sơn, uốn lượn quanh co qua miền Châu Hoá, theo hướng

Nam Bắc qua điện Hòn Chén vòng qua đất bãi Nguyệt Biều ôm lấy chân đồi

Thiên Mụ rồi xuôi về Huế, gặp thành phố ở cồn Giã Viên rồi uốn sang Cồn

Hến, ra khỏi kinh thành dòng sông liền chếch về phía Bắc trôi đi trong sắc

màu vùng ngoại ô Vĩ Giạ, như lưu luyến với kinh thành mà nó lại rẽ theo

hướng đông tây để gặp thành Huế lần nữa ở thị trấn Bao Vinh rồi mới trôi ra

biển. Sự xuất hiện một loạt các địa danh văn hoá vốn gắn liền với xứ Huế

thực không vô tình, như muốn nói với bạn đọc: sông Hương chính là hiện

thân, là bộ mặt, là linh hồn của xứ Huế. Sông Hương là lịch sử của đất cố đô.

Từ thuở xa xưa nó là dòng sông biên thuỳ của nước Đại Việt, trong sách Dư

địa chí của Nguyễn Trãi nó là dòng sông thiêng với tên Linh Giang cổ kính.

Đến thế kỷ XVIII nó ưỡn ngực đưa những đoàn quân Tây Sơn hùng dũng tiến

ra Bắc đuổi quân Thanh xâm lược. Từ thế kỷ XIX dòng sông lại in bóng

những lăng tẩm đồ sộ chôn vùi giấc ngủ nghìn năm của vua chúa nhà Nguyễn.



89



Xuân Mậu Thân 1968 dòng sông lại mở lòng đón nhận những dòng máu anh

hùng của những người con xứ Huế, yêu xứ Huế đã ngã xuống bảo vệ mảnh

đất anh hùng. Phác thảo lại lịch sử cũng là một cách để nhà văn làm sống dậy

dòng sông Hương trong lịch sử, nó như được chảy ra từ lịch sử, mang ý thức

của lịch sử. Con sông Hương đã trở thành huyền thoại, thành dấu ấn của lịch

sử.

Dòng sông Hương mang trong mình nó nét văn hoá đậm đà xứ Huế. Đó

có thể là một sắc tím Huế đã trở thành biểu tượng riêng của xứ này mà sắc tím

ấy có từ rất xưa, vốn là "màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh

chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện". Đấy

là sắc áo cưới của xứ Huế ngày xưa, trong những ngày nắng được đem ra phơi

và luôn in bóng trên mặt sông Hương trữ tình. Đó có thể là một đêm hội hoa

đăng những rằm tháng bảy với hàng trăm nghìn ngọn đèn bồng bềnh trên mặt

sông; là âm thanh của "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya"… Đó là giọng

hò dân gian cũng là tâm hồn người xứ Huế lan xa và âm vang khắp mặt sông.

Giả sử nếu không có mặt nước Hương giang thì dứt khoát không thể có những

điệu hò, nhịp hò ấy.

Từ cổ chí kim, cái đẹp luôn là đối tượng thẩm mỹ, luôn là chuẩn mực

thẩm mỹ để các nhà văn nhà thơ hướng tới khám phá, sáng tạo, so sánh, đối

chiếu. Nhưng nếu không khéo sẽ rất dễ rơi vào sự khuôn sáo nhàm chán. Khi

miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương nhà văn Hoàng Phủ đã tránh được điều

ấy nhờ ông luôn nhìn nó như nhìn một con người mà cụ thể là một cô gái đẹp

trong mối liên hệ tự nhiên và có cơ sở. Nơi thượng nguồn, sông Hương như

"một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại". Di-gan còn có tên gọi khác là

Bô-hê-miêng chỉ một tộc người thích sống tự do, lang thang mưu sinh bằng

múa hát. Đặc tính của cô gái Di-gan cũng là đặc tính của dòng sông Hương

nơi rừng già, lang thang, tự do và luôn ồn ào hát múa. Chảy giữa cánh đồng



90



Châu Hoá, dòng sông hiện lên "như người gái đẹp nằm ngủ mơ màng".

Không chỉ ngủ say mà chỉ "mơ màng", có lẽ giống như người con gái trong

thơ Xuân Quỳnh "Cả trong mơ còn thức", nghĩa là vẫn thao thức chảy, thao

thức bên trong cái êm đềm nhẹ nhàng. Về đến kinh thành "sông Hương đã trở

thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya" đầy tâm trạng. Những uốn

lượn mềm mại của dòng chảy được nhà văn nhìn đó như là hành động yêu của

nàng Kiều tài sắc trong đêm tình tự. Ở thời hoà bình sông Hương lại "làm một

người con gái dịu dàng của đất nước". Tôi lại liên tưởng về dòng sông Đuống

của Hoàng Cầm, thời đánh giặc Pháp cũng được nhà thơ thổi vào một linh

hồn con người mà tôi cứ tưởng tượng đó là người gái đẹp, xứ Kinh Bắc "đa

tình": "Sông Đuống trôi đi / Một dòng lấp lánh / Nằm nghiêng nghiêng trong

kháng chiến trường kỳ" (Bên kia sông Đuống).

Nhà văn cũng "vẽ" sông Hương bằng ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình với

những động từ chỉ hoạt động: "vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi

đột ngột vẽ một đường cung thật tròn…"; "vòng nhiều khúc quanh đột ngột, uốn

mình theo những đường cong thật mềm…". Rất nhiều những từ láy tạo hình dồn dập

xuất hiện: lặng lờ, lững lờ, bồng bềnh, ngập ngừng, lô xô, sừng sững, xúm xít, lập

loè… và những so sánh tạo hình: "dòng sông như thành quách", "mềm như tấm lụa",

"những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi", "nhỏ nhắn như những

vành trăng non"…. có cả những so sánh với cái trừu tượng để khơi gợi trí tưởng

tượng của người đọc về dòng sông Hương cổ kính: "như triết lý, như cổ thi"… Rồi là

những ẩn dụ tạo hình: "sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ", "kéo một nét thẳng

thực yên tâm"… Nhờ sự hoà sắc của ngôn ngữ mà dòng sông như sống động hẳn lên,

tươi vui, ấm áp; "những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng", "sắc nước

trở nên xanh thẳm", "phản quang nhiều màu sắc "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím",

"những biền bãi xanh biếc", "chiếc cầu trắng", "màu xanh biếc của tre trúc"…

Một điều dễ nhận ra nữa là không gian cuộc sống quen thuộc ở Huế với tất cả



91



những sự gần gũi thân yêu với tác giả. Nhà văn cảm nhận được sự yên tĩnh của thành

phố Huế trong từng vi mạch của đời sống: “cũng giống như lòng mẹ, không có gì

đồng nghĩa với sự yên nghỉ” [69, tr.383]; nhịp cầu Trường Tiền “là dấu lặng trong

âm nhạc, là chỗ dừng lại giữa lòng để nói nhiều hơn trong khoảng im và mở ra

không gian của nội tâm. Nó chính là chất thơ của một cấu trúc bằng sắt thép” [69,

tr.161]. Trong không gian vườn Huế, mỗi cây trái đều được tác giả cảm nhận theo

một hướng liên tưởng so sánh khác nhau: cây ngọc lan già “đồ sộ như một áng thơ

dân gian” [69, tr.375]; cánh hoa hải đường rạng rỡ, nồng nàn “khum khum như muốn

phong lại cái nụ cười má núm đồng tiền” [69, tr.378]; đoá trà mi trắng trong và tinh

“như một phiến ngọc bạch” [69, tr.378]; …đặc biệt, sông Hương không chỉ là một

dòng nước trong xanh xuôi chảy bình thường mà dưới ngòi bút so sánh tài hoa của

nhà văn, nó trở nên lung linh biến ảo. Cũng cùng một dòng sông, một ngòi bút, một

chất liệu ngôn ngữ, nhưng được chảy qua tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có thể

trở nên sắc nét hơn rất nhiều: sông Hương có khi dữ dội, mãnh liệt cuộn xoáy như

“một bản trường ca của rừng già” [69, tr.316], “như những cơn lốc” [69, tr.316,],

“như một cô gái di- gan phóng khoáng và man dại, một tâm hồn tự do và trong sáng”

[69, tr.316]; có khi lại “mềm như tấm lụa” [69, tr.318], khi lại nhẹ nhàng, dịu dàng

êm trôi như một phiến ngọc… bên cạnh đó, sông Hương còn được tác giả ví như

“bà mẹ phù sa cảu một vùng văn hoá xứ sở” [69, tr.317], “như một người biết sống

giữ mình” [69, tr.74], có khi lại trầm mặc vẻ đẹp “như triết lý, như cổ thi” [69, tr.318],

như “là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”

[69, tr.323], và trong những chiều sương xa, dòng sông “mịt mùng như cả con sông

Ngân Hà đang xuống trần” [69, tr.678]…

Không chỉ sống bằng tình yêu và tâm hồn tha thiết với Huế nên mới cảm nhận

về Huế say lòng đến như vậy, mà với giác quan rộng mở, lòng say đời, bước chân

trên mọi nẻo đường, Hoàng Phủ Ngọc tường cũng nhìn sự vật, hiện tượng với những

liên tưởng so sánh thú vị. Những so sánh xuất hiện liên tiếp trong các trang ký, trang



92



văn nhưng mỗi so sánh đều là một phát hiện mới mẻ theo một phong cách thẩm thấu

nghệ thuật riêng của chính nhà văn. Do vậy có rất nhiều so sánh mới lạ và độc đáo

được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường giới thiệu thể hiện một trí tuệ liên tưởng sâu

rộng và trái tim tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Tác giả so sánh cái hữu hình với cái vô

hình để tôn tạo hình tượng cho nhau. Những so sánh đó đều rất đẹp và hay, tạo nhiều

giá trị thẩm mỹ, qua đó, các sự vật, hiện tượng được đề cập tới đều trở nên có đường

nét, hình khối, có tâm hồn và lung linh, xao động hơn giàu tính liên tưởng hơn.

Dựa trên thứ ngôn ngữ có nhịp điệu vốn là đặc trưng thứ nhất của ngôn ngữ

thơ ca mà ta có thể ví bài bút ký như một bài thơ. Thứ nữa là ngôn từ của tác phẩm

rất giàu giá trị tạo hình được biểu hiện qua một thế giới tính từ được dùng hết sức

phóng túng. Có cảm tưởng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một ông chủ ngôn ngữ vừa sở

hữu một lượng tính từ giàu có lại vừa giầu có vốn cảm xúc vốn đã tinh tế. Có câu văn

đầy tính từ, những tính từ vừa lấp lánh sắc mầu vừa ấm áp cảm xúc: "Trước khi về

đến vùng châu thổ êm đềm, tự nó đã là một bản trường ca hùng tráng của rừng già,

rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn

lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở lại dịu dàng và say đắm giữa

những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Vì tuân theo quy luật cảm

xúc mà câu văn thường dài, nhiều mệnh đề, nhiều bổ ngữ như những lớp sóng ngôn

từ xao động để diễn đạt những lớp sóng hưng phấn cảm xúc mà tôi cứ hình dung đó

là những lớp sóng của dòng Hương giang đang dập dềnh trong tâm trí bạn đọc.

Ngôn ngữ văn chương Hoàng Phủ luôn có sự hoà trộn giữa tâm hồn

đầy chất thơ với tư duy khoa học rành rẽ, khúc triết. Viết về Trung tâm thành

Châu Hoá, về Rừng hồi Lạng Sơn, Rừng nước mặn Cà Mau, về cuộc Chế ngự

cát, hay Đánh giặc trên hàng rào điện tử của người dân Quảng trị…, ngôn

ngữ của Hoàng Phủ được thể hiện một cách nghiêm cẩn, chính xác như một

nhà khoa học. Các số liệu, dữ kiện, chi tiết..., có mặt trong tác phẩm như một

yếu tố ngôn ngữ không chỉ cung cấp tri thức cho người đọc mà còn làm tăng



93



hiệu quả thuyết phục cho tác phẩm: “Cây hồi có tên khoa học là Illicum

verum Hook, trong đó cái họ La tinh Illicum có nghĩa là “sự quyến rũ”. Tên

Việt của nó gọi đúng là Đại Hồ hương” (Rừng Hồi). Ngôn ngữ với ý nghĩa

văn hoá tự thân của nó cùng lối sắp xếp dùng từ, đặt câu của Hoàng Phủ đã

khiến tác phẩm của ông đạt đến giá trị bền vững của văn chương.

3.1.3. Ngôn ngữ biểu hiện mang đậm giá trị văn hoá dân tộc

Xét trong mối quan hệ giữa văn học và văn hoá, có thể thấy các trang

ký của hoàng Phủ Ngọc Tường có liên quan mật thiết tới văn hoá- văn hoá xứ

Huế và nhận thấy hệ thống ngôn ngữ trong ký của ông là một bộ phận của văn

hoá. Đây là mối quan hệ biện chứng, phản ánh đặc điểm có tính quy luật của

quan hệ riêng chung có tầm cấp triết học - “… cái riêng chỉ tồn tại trong mức

độ nó liên hệ với cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua

cái riêng…” [46. tr. 384]. Nghiên cứu văn học không thể tách rời văn học với

những mối liên hệ với nhiều bộ phận (cái riêng) khác, và nhất là không thể

không đặt nó trong mối quan hệ với văn hoá (cái chung) với tư cách là toàn

bộ sáng tạo vật chất và tinh thần của nhân loại, như M. Bakhtin xác định:

“Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó

ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó

tồn tại” [65, tr.362]. Mối quan hệ giữa văn học và văn hoá còn là mối quan hệ

đa chiều kích và có tính nguyên tắc. Ngay cả những trường phái văn học, tiêu

biểu như chủ nghĩa hình thức Nga, nhấn mạnh đến tính tự trị của văn học,

tưởng chừng như tách rời văn học với những mối liên hệ khác, nhưng như

chính những chủ soái của trường phái này khẳng định: “Cả Tynianov và

Mukarovski, cả Chklovski và tôi, chúng tôi không cho rằng nghệ thuật chỉ cần

cho bản thân nó. Trái lại, chúng tôi chỉ ra rằng nghệ thuật là một bộ phận

của toà lâu đài xã hội, là một phần hợp thành có tương quan với những bộ

phận khác” [39, tr.183]. “Ngược lại, văn hoá học với tư cách là khoa học



94



nghiên cứu văn hoá trong tính thống nhất đa dạng của nó không thể không

quan tâm đến văn học, một trong những bộ phận nhạy cảm và trọng yếu của

văn hoá, nhất là đối với những nền văn hoá trong đó văn học đóng vai trò đặc

biệt quan trọng, như nền văn hoá Trung Hoa, Việt Nam chẳng hạn” [73, tr.89].Ở nước ta không ít công trình nghiên cứu văn học đi sâu vào tìm hiểu bản

sắc dân tộc trong văn học Việt Nam, xem bản sắc dân tộc như là phẩm chất

của văn học, và cũng có không ít những công trình nghiên cứu văn hoá xem

trọng dẫn liệu văn học như những dấu hiệu, những tiêu chí góp phần làm sáng

tỏ đặc điểm văn hoá, bản sắc văn hoá của dân tộc.

Mối quan hệ riêng chung, tổng thể và bộ phận giữa văn học và văn hoá

như nêu trên không có nghĩa là đối tượng nghiên cứu của văn hoá học bao

trùm lên đối tượng nghiên cứu của khoa nghiên cứu văn học. Văn hoá học bao

quát toàn bộ hiện tượng và những biểu hiện đa dạng của văn hoá trong đó có

văn học, nhưng văn hoá học không đi sâu, và không thể đi sâu vào những vấn

đề có tính bản thể luận của văn học và những biểu hiện đa dạng của nó. Vả

lại, bên cạnh văn học còn biết bao lĩnh vực khác đòi hỏi tính chuyên ngành

cao. Như vậy, so với các chuyên ngành khoa học khác, tính chuyên ngành của

văn hoá học chính là ở độ bao quát, liên kết các hiện tượng đa dạng của văn

hoá, các lĩnh vực của văn hoá, nhìn văn hoá trong tính thống nhất đa dạng của

nó mà không đi sâu vào từng lĩnh vực chuyên ngành cụ thể. Trong quan hệ

với chuyên ngành nghiên cứu văn học, có thấy văn hoá học xem xét văn học

từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu vào văn

học. Chính vì vậy, hơn đâu hết văn hoá cần những đóng góp của các nghiên

cứu chuyên ngành hơn là thế chỗ hoặc làm thay cho các chuyên ngành đó.

Là một thành tố văn học, ngôn ngữ văn chương đã tồn tại như một

phương tiện bảo tồn gìn giữ và sáng tạo văn hoá hữu hiệu. “Một ngôn ngữ

dân tộc vốn là kết quả của sự phát triển văn hoá, lịch sử của cả dân tộc ấy.



95



Trong ngôn ngữ dân tộc có sự mã hoá toàn bộ những trải nghiệm văn hoálịch sử của dân tộc” [3].

Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh

vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen

của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,... Từ đó mà ông

đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về trong

không gian văn hoá xứ Huế thơ mộng, với chất liệu ngôn ngữ của riêng Huế,

“vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn

mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà

văn yêu quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng

“Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng

thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm

tháng bảy... chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”

Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông

không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa

và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc

sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho

những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại

phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn

châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt.

Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn

Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm

nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ

Nguyên Giáp đã phát biểu: Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành

phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc.

Nghiên cứu phong cách nghệ thuật kí Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc

nhìn văn hóa, ta luôn tìm thấy mối liên hệ giữa mạch ngầm văn hóa với những



96



giá trị văn chương, từ đó làm nổi rõ vẻ đẹp vừa thực tế, cụ thể của đời sống, vừa

lung linh, ảo diệu, thấm đẫm chất văn hóa trong tác phẩm văn chương của nhà

văn. Ngôn ngữ kí Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ đề cập đến các nội dung

văn hóa được thể hiện trong tác phẩm mà còn chú trọng đến tìm hiểu, lý giải các

yếu tố văn hóa đã ảnh hưởng, chi phối, tác động đến tâm thức sáng tạo của nhà

văn, nghĩa là dùng ngôn ngữ văn hóa như một hệ thống để soi chiếu, làm nổi rõ

các giá trị của văn học được thể hiện trong chiều sâu tác phẩm, làm nổi bật căn

nguyên tồn tại chất văn hóa đậm nét, đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của

Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Việc tiến hành xem xét, đánh giá sự đóng góp về thể loại của tác giả từ

góc độ văn hóa không chỉ làm nổi bật chiều sâu giá trị văn hóa trong sáng tác

của ông mà còn giúp hình dung về một dòng chảy văn hóa trong sáng tạo nghệ

thuật, đặc biệt trong văn xuôi và ký của văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời,

thể hiện một cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về sự đa dạng trong sáng tạo nghệ

thuật của nhà văn, làm nổi bật ý nghĩa của mối quan hệ giữa nhà văn với quá

trình sáng tạo nghệ thuật.

Có thể nói, tác giả đã liên tiếp sử dụng ngôn từ âm thanh của dòng sông

(tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm

khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) trong sự lồng ghép với những làn

điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế tạo nên một giai điệu nghệ thuật

tuyệt vời. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vút lên,

mênh mang, xao xuyến… Viết về sông Hương, nhiều lần nhà văn đã liên

tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào đã từng có thời gian

sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc

cung đình. Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một nghệ

nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm

hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh”.



97



Bóng dáng Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí

bộc lộ một khả năng liên tưởng phong phú, một vốn văn hóa sâu rộng và sự

gắn kết với truyền thống, một sự đồng điệu tâm hồn nhà văn.

3.2. Sự pha trộn nhiều giọng điệu trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường

3.2.1. Khái niệm về giọng điệu nghệ thuật

Giọng điệu là một trong những phạm trù thẩm mỹ của văn học. Khi cất

lên tiếng nói cảm thức về cuộc sống, tất cả thái độ, tình cảm, tư tưởng thẩm

mỹ và cả quan niệm của nhà văn đã được tổng hợp thành giọng điệu. Với tư

cách là một trong những yếu tố của hình thức, giọng điệu đã tạo nên đặc

điểm, dấu ấn riêng cho nhà văn trong tác phẩm nghệ thuật. Nhà văn tài năng

là người tạo ra được một giọng điệu riêng, đặc trưng trong sáng tạo nghệ thuật

của mình.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ tình cảm, lập

trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể

hiện những lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,

cách cảm thụ xa, gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm

biếm.” [25, tr.112]. Khi nghiên cứu về giọng điệu, Bakhtin rất chú ý đặt nó

trong bối cảnh văn hoá, trên cơ sở gắn giọng điệu với cảm hứng chủ đạo và

với kiểu sáng tác. Trần Đình Sử cũng quan niệm giọng điệu là một hiện tượng

thẩm mỹ nhất định được tạo thành “từ một hệ thống các yếu tố gắn kết, hô

ứng nhau” phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm. Theo ông, giọng

điệu của tác phẩm “được thể hiện qua các biểu hiện ngôn ngữ nhưng tự nó là

hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, gắn liền với hệ thống sự kiện, motif, hình ảnh

đặc thù”. Đó là “một hiện tượng có tầm văn hoá và có ý nghĩa đối với thời đại

văn học” [78, tr.250].



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

×