1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Y dược - Sinh học >

Xu hướng nghiên cứu dược liệu và chế phẩm đông dược gần đây tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 101 trang )


Gần đây, Viện kiểm nghiệm thuốc Trung Ương thực hiện đề tài “Nghiên

cứu phát triển bộ dữ liệu chuẩn của một số dược liệu thường dùng phục vụ công

tác kiểm tra giám sát chất lượng dược liệu và thuốc đông dược” [4]. Trong đó, đã

tiến hành xây dựng “dấu vân tay” của một số dược liệu bằng phương pháp TLC

và HPLC. Chỉ tiêu để xây dựng dấu vân tay là phải chọn lựa các pic đặc trưng

cho dược liệu. Trong số các pic đặc trưng này ta chọn ra một “pic đánh dấu”

(thông thường là pic của chất đối chiếu), tính toán thời gian lưu tương đối của

các pic còn lại so với “pic đánh dấu” và đưa ra bảng dữ liệu về các pic đặc trưng

trong sắc ký đồ của dược liệu. Bảng dữ liệu này cùng với sắc ký đồ chuẩn là

“dấu vân tay” của dược liệu theo điều kiện sắc ký đã quy định. Đây là một công

trình nghiên cứu có giá trị để định tính các dược liệu này (30 dược liệu).

Bảng 1.1 – Các dược liệu và phương pháp sử dụng nghiên cứu phát triển

bộ dữ liệu chuẩn [4]

STT



Dược liệu



Phương pháp sử dụng



1



Bạch thược



TLC và HPLC có chất đối chiếu là paeoniflorin



2



Bạch truật



TLC và HPLC không có chất chuẩn



3



Bán hạ bắc



TLC không có chất chuẩn



4



Cát sâm



TLC không có chất chuẩn



5



Chỉ thực



TLC và HPLC có chất đối chiếu là hesperidin



6



Chi tử



TLC và HPLC có chất đối chiếu là geniposid



7



Diệp hạ châu



8



Cúc gai



9



Cây hoa ngũ sắc



10



Đại hoàng



11



Đại hồi



TLC (có chất đối chiếu và không có chất đối chiếu)

HPLC không có chất đối chiếu

TLC và HPLC với 2 chất đối chiếu (silydianin và silybin)

TLC và GC

TLC và HPLC có chất đối chiếu là emodin

TLC và HPLC với chất đối chiếu anethol

GC – MS



9



STT



Dược liệu



Phương pháp sử dụng



12



Đan sâm



TLC (có chất đối chiếu danshensu và không có chất đối chiếu)

HPLC không có chất đối chiếu



13



Địa cốt bì



TLC và HPLC không có chất đối chiếu



14



Diệp hạ châu đắng



TLC và HPLC có chất đối chiếu là phyllanthin



15



Đương quy



TLC (có chất đối chiếu acid ferulic và không có chất đối chiếu)

HPLC không có chất đối chiếu

GC – MS



16



Hạ khô thảo



TLC và HPLC có chất đối chiếu là acid ursolic



17



Hoàng đằng



TLC và HPLC có chất đối chiếu là palmatins



18



Hương phụ



TLC và HPLC không có chất đối chiếu

GC – MS



19



Kê huyết đằng



TLC và HPLC không có chất đối chiếu



20



Kim ngân



21



Mã tiền



22



Mẫu đơn bì



TLC và HPLC có chất đối chiếu là paeoniflorin



23



Mộc thông



TLC với chất đối chiếu là acid oleanolic

HPLC không có chất đối chiếu



24



Nghệ



25



Ngưu tất



26



Quế



27



Riềng



TLC và HPLC có chất đối chiếu là acid chlorogenic

TLC và HPLC có chất đối chiếu là strychnin và brucin



TLC và HPLC có chất đối chiếu là curcumin

GC – MS

TLC và HPLC có chất đối chiếu là acid oleanolic

TLC và HPLC có chất đối chiếu là aldehyd cinnamic

GC – MS

TLC không có chất đối chiếu

GC – MS

TLC (không có chất đối chiếu và có 2 chất đối chiếu là borneol

và camphor)

GC – MS



28



Sa nhân



29



Thăng ma



TLC và HPLC với chất đối chiếu acid ferulic



30



Trần bì



TLC và HPLC với chất đối chiếu hesperidin

GC – MS



10



1.2.3.2. Nghiên cứu thiết lập chất chuẩn chiết từ dược liệu

Lần đầu tiên ở Việt Nam, năm 2010, viện Kiểm nghiệm thuốc Trung Ương

đã thực hiện nghiên cứu thiết lập được 10 chất chuẩn là các hợp chất đặc trưng

chiết từ dược liệu [8]. Trong đó, 10 tiêu chuẩn chất lượng đánh giá chất chuẩn đã

được xây dựng theo đúng quy định của WHO và ASEAN. Cụ thể, đối với mỗi

chất chuẩn đều được xác định các chỉ tiêu sau đây:

- Định tính: Tiến hành phương pháp IR, NMR hoặc phối hợp thêm phương

pháp HPLC.

- Độ tinh khiết: Sử dụng một trong các phương pháp HPLC, phân tích nhiệt

vi sai (DSC), đo điểm chảy hoặc phối hợp.

-



Định lượng và xác định hàm lượng tạp chất liên quan bằng phương pháp

HPLC.

Như vậy có thể thấy rằng việc tiêu chuẩn hóa chất lượng dược liệu với việc



sử dụng chất đối chiếu và các phương pháp hiện đại như HPLC, HPTLC trong

định tính, định lượng dược liệu là một xu hướng nghiên cứu mới trong giai đoạn

hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà ở cả các nước khác trên thế giới. Do đó,

nhằm nâng cao khả năng kiểm soát chất lượng dược liệu đinh lăng, chúng tôi dự

định tiến hành xây dựng phương pháp định tính, định lượng dược liệu đinh lăng

sử dụng chất đối chiếu là acid oleanolic để góp phần xây dựng “dấu vân tay

HPLC” cho dược liệu đinh lăng, góp phần thuận lợi cho công tác tiêu chuẩn

hóa và kiểm tra chất lượng dược liệu này và các chế phẩm từ dược liệu.



11



1.3. TỔNG QUAN NHÓM SAPONIN VÀ ACID OLEANOLIC

1.3.1. Tổng quan về nhóm saponin

Nhiều công trình nghiên cứu trước đây đã cho thấy thành phần hoạt chất

chính của đinh lăng là saponin thuộc nhóm saponin triterpenoid trong đó có một

sapogenin đã được xác định là acid oleanolic.

1.3.1.1. Định nghĩa glycosid và saponin

Glycosid là những hợp chất hữu cơ tạo thành do sự ngưng tụ giữa một

đường với một phân tử hữu cơ khác với điều kiện nhóm hydroxyl bán acetal của

phần đường phải tham gia vào sự ngưng tụ. Phần không phải là đường được gọi

là aglycon hoặc genin, có cấu trúc hóa học rất khác nhau, tác dụng sinh học phụ

thuộc vào phần này.

Saponin là một nhóm glycosid lớn, gặp nhiều trong thực vật. Phần genin

được gọi là sapogenin. Về mặt phân loại, dựa vào cấu trúc hóa học có thể chia

thành: saponin triterpenoid và saponin steroid.

1.3.1.2. Các phương pháp định tính saponin

a. Dựa trên tính chất tạo bọt

Đây là tính chất đặc trưng nhất của saponin do phân tử saponin lớn và có

cùng một lúc một đầu ưa nước và một đầu kỵ nước. Người ta dựa vào hiện tượng

gây bọt ở môi trường kiềm và acid để sơ bộ phân biệt saponin steroid và saponin

triterpenoid.

Có thể dựa vào chỉ số bọt để đánh giá một nguyên liệu chứa saponin: chỉ số

bọt là số ml nước để hòa tan saponin trong 1 gam nguyên liệu cho một cột bọt

cao 1cm sau khi lắc và đọc (tiến hành trong điều kiện quy định).



12



b. Dựa trên tính chất phá huyết

Để đánh giá một nguyên liệu chứa saponin, người ta dựa vào chỉ số phá

huyết là số ml dung dịch đệm cần thiết để hòa tan saponin có trong 1 gam

nguyên liệu gây ra sự phá huyết đầu tiên và hoàn toàn đối với thứ máu đã chọn

(tiến hành trong điều kiện quy định).

c. Các phản ứng màu

Saponin triterpenoid cho tác dụng với vanilin 1% trong dung dịch HCl và

hơ nóng (phản ứng Rosenthaler) sẽ có màu hoa cà.

Phản ứng Liebermann – Burchardt hay dùng để phân biệt hai loại saponin:

Lấy vài miligram sapogenin hòa nóng vào 1 ml anhydrid acetic, cho thêm 1 giọt

H2SO4 đậm đặc, nếu là dẫn chất steroid thì có màu lơ – xanh lá, còn dẫn chất

triterpenoid thì có màu hồng đến tía.

d. Sắc ký lớp mỏng

Một vài dung môi khai triển dùng để định tính saponin triterpenoid là:

 Cloroform – methanol – nước (65:35:10)

 Ethyl acetat – acid acetic – nước (8:2:1)

 n-butanol – ethanol (8:2)

Các thuốc thử hiện màu có thể dùng là: Thuốc thử Liebermann – Burchard,

thuốc thử Salkowski, dung dịch acid phosphomolybdic 10% trong ethanol,…

e. Định lượng

Có thể định lượng saponin bằng nhiều phương pháp khác nhau:

 Phương pháp cân

 Phương pháp đo quang

 Phương pháp HPLC



13



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

×