Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 136 trang )
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG DỊCH VỤ ĂN UỐNG
CHO KHÁCH DU LỊCH HÀN QUỐC TẠI CÁC KHÁCH SẠN 4 SAO
Ở HẠ LONG
2.1 Tổng quan về thị trƣờng khách du lịch Hàn Quốc
2.1.1 Một số đặc điểm về đất nước và con người Hàn Quốc
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Bán đảo Triều Tiên nằm ở Đông - Bắc Á, từ lục địa Châu Á ở phía Bắc tới
mũi đất ở Biển Nam, dài 1000km, rộng 216 km. Bán đảo Triều Tiên đang bị chia
cắt ở vĩ tuyến 38. Phía Bắc là Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, phía Nam
là Hàn Quốc - tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc.
Hàn Quốc nằm giữa 300 và 430 vĩ Bắc, 1240 và 1310 kinh Đông. Phía Bắc
giáp với Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên; phía Đông giáp với biển Nhật
Bản; phía Nam và Đông - Nam giáp với eo biển Triều Tiên, ngăn cách Hàn Quốc
với Nhật Bản; phía Tây giáp với Hoàng Hải. Biên giới tự nhiên giữa bán đảo
Triều Tiên và Trung Quốc là hai con sông Amnok và Tuman; 16km cuối cùng
của sông Tuman cũng là biên giới tự nhiên với Liên Bang Nga.
Hàn Quốc có diện tích 99.392 km2, chiếm 45% tổng diện tích của bán đảo
Triều Tiên. Đường biên giới dài 214 km, đường bờ biển dài 2.412 km.
Địa hình núi non chiếm khoảng hai phần ba diện tích lãnh thổ, giống Thổ
Nhĩ Kỳ, Hungary hoặc Ai-len. Dãy Taebaeksan chạy suốt chiều dài bờ biển phía
Đông, nơi những con sóng của Biển Đông đập mạnh vào núi đã tạo ra các vách
đá dốc và các bãi đá. Sườn phía Tây và phía Nam bán đảo bằng phẳng hơn, với
những vùng đồng bằng và rất nhiều đảo ở ngoài khơi tạo thành những vịnh nhỏ.
Bán đảo nổi bật với nhiều ngọn núi và dòng sông kỳ vĩ, vì vậy người Hàn Quốc
thường ví đất nước mình như một tấm gấm thêu đẹp đẽ.
Núi Baekdusan ở miền Bắc bán đảo là ngọn núi cao nhất với độ cao
2.744m so với mực nước biển và trải dài theo đường biên giới phía Bắc tiếp giáp
32
với Trung Quốc. Baekdusan là ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động, nơi một hồ
nham thạch rộng đã được hình thành với cái tên Cheonji. Ngọn núi này được coi
là một biểu tượng đặc biệt của tinh thần Hàn Quốc và được nhắc đến trong bài
quốc ca.
So với quy mô lãnh thổ, bán đảo Triều Tiên có số lượng sông suối tương
đối lớn. Hệ thống đường thủy này đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc
hình thành lối sống của người Hàn Quốc và trong cả công cuộc công nghiệp hóa
đất nước. Hai con sông dài nhất ở Bắc bán đảo là Amnokgang (Yalu, 790 km) và
Dumangang (Tumen, 52 km). Hai con sông này đều bắt nguồn từ ngọn núi
Baekdusan rồi lần lượt đổ xuống theo hướng Tây và Đông, tạo nên biên giới phía
Bắc của bán đảo. Còn hai con sông Nakdonggang (525 km) và Hangang (494
km) tạo thành hai đường thủy ở Nam bán đảo. Sông Hangang chảy ngang qua
Seoul, thủ đô của Hàn Quốc, được coi là con đường sinh mệnh cho dân cư tập
trung đông đúc ở khu vực trung tâm của đất nước Hàn Quốc ngày nay, như nó đã
từng giúp cho dân cư các vương quốc cổ đại phát triển dọc theo hai bờ sông.
Bao quanh ba mặt của bán đảo, đại dương đóng một vai trò quan trọng đối
với cuộc sống của người Hàn Quốc từ ngàn xưa và đã góp phần vào sự phát triển
ngành công nghiệp đóng tàu và kỹ năng hàng hải.
Thành phố lớn nhất Hàn Quốc là Seoul, dân số khoảng 10,46 triệu người
năm 2010, nằm ở phía Tây Bắc. Những thành phố lớn khác là Incheon ở phía
Tây Seoul, Daejeon ở miền Trung, Kwangju ở phía Tây Nam, Daegu và Busan ở
phía Đông Nam.
* Khí hậu
Hàn Quốc nằm ở khu vực khí hậu ôn hòa, có bốn mùa rõ rệt. Mùa Xuân
và mùa Thu ngắn hơn so với mùa Hạ và mùa Đông, nhưng rất dễ chịu do thời tiết
mát mẻ và nhiều ngày nắng đẹp. Vào mùa Xuân, cây cối tốt tươi, hoa nở khắp
nơi, ở nông thôn chuẩn bị gieo hạt cho vụ lúa hàng năm. Mùa Thu là mùa thú vị
nhất trong năm. Mùa Hè nóng và ẩm ướt, mùa Đông thì lạnh, khô và tuyết rơi
nhiều. Ở Hàn Quốc, sự chênh lệch nhiệt độ trung bình trong năm dao động từ
33
100C đến 160C, ngoại trừ các vùng núi. Tháng Tám là tháng nóng nhất với nhệt
độ trung bình từ 200C đến 260C. Tháng giêng là tháng lạnh nhất với nhiệt độ
trung bình từ -50C đến -100C.
2.1.1.2 Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
* Kinh tế
Sau khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên vào năm 1953, đất nước Hàn Quốc
đạt được sự tăng trưởng kinh tế phần lớn nhờ vào các kế hoạch mở rộng của
chính phủ và nhờ vào sự lao động cần cù của người dân Hàn Quốc. Chính phủ
Hàn Quốc đã phát triển được một đội ngũ lao động có trình độ cao, được giáo
dục tốt và đã đề ra kế hoạch 5 năm kể từ năm 1962 để tạo một hệ thống phát triển
tập trung vào chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Từ năm 1970,
tổng sản phẩm kinh tế quốc dân đã tăng 35 lần, khoảng 45% giá trị tổng sản phẩm
kinh tế quốc dân hiện nay là từ các ngành sản xuất và xuất khẩu hàng thành phẩm chứ
không phải xuất khẩu nguyên liệu thô. Hàn Quốc được xếp vào nhóm các quốc gia
buôn bán lớn nhất thế giới. Chính phủ cũng tham gia một cách năng động trong nhiều
lĩnh vực, bao gồm cả các ngành dịch vụ công cộng và các ngành công nghiệp yêu cầu
đầu tư lớn. Hiện nay, trong nước đã có các tuyến đường cao tốc và các tuyến vận tải
lớn nối liền các thành phố, mạng lưới liên lạc viễn thông hiện đại rộng khắp cả nước.
Hàn Quốc không có nhiều tài nguyên dầu mỏ và các tài nguyên khác rất
hạn chế, nguyên liệu cho ngành công nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu.
Năm 1970, Nhà nước bắt tay vào việc nghiên cứu chính sách đa dạng hóa các
nguồn năng lượng và tăng cường sử dụng năng lượng nguyên tử và năng lượng
từ khí thiên nhiên, thủy điện.
Ngành công nghiệp chính của Hàn Quốc bao gồm điện tử, chế tạo ô tô,
dệt, may mặc, chế tạo vũ khí và sản xuất hàng da. Riêng lĩnh vực chế tạo ô tô
Hàn Quốc được biết đến như một bước nhảy vọt thần kỳ, xếp thứ 6 trên thế giới
về công nghiệp sản xuất ô tô với sản lượng hơn 3 triệu xe mỗi năm. Thêm vào đó
một nguồn thu ngoại tệ của đất nước là dịch vụ đấu thầu xây dựng, Chính phủ đã
34
ban hành nhiều đạo luật khuyến khích đầu tư nước ngoài dài hạn ở Hàn Quốc
trong cả hai lĩnh vực kinh tế lẫn xã hội.
Hàn Quốc nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới ngay từ đầu
cuộc khủng hoảng năm 1997. Chính phủ đã đề xuất một mô hình mới bao gồm
việc nâng cấp các thông lệ kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế, bồi dưỡng nguồn
nhân lực, phát triển công nghệ và đẩy mạnh hiệu quả của các định chế. Chính
phủ cam kết xúc tiến cải cách, tiếp tục thực hiện cải cách tài chính với công ty,
đồng thời theo đuổi các chính sách kinh tế vĩ mô linh hoạt có lợi cho tăng trưởng.
Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại lấy xuất khẩu làm động lực tăng
trưởng đã góp phần quan trọng vào sự chuyển đổi kinh tế toàn diện của Hàn
Quốc. Dựa trên chiến lược này, nhiều chương trình phát triển đã được thực hiện
thành công. Kết quả từ năm 1962-2010, tổng thu nhập quốc dân (GNI: Gross
National Income) của Hàn Quốc tăng từ 2,3 tỷ USD lên 1.014 nghìn tỷ USD, với
thu nhập bình quân tính theo đầu người tăng vọt từ 87 USD/năm lên 20.759
USD/năm. Theo thống kê do Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD công bố thì
quy mô GDP của Hàn Quốc năm 2009 là 820 tỷ USD và trở thành nền kinh tế lớn thứ
15 trên thế giới. Đây là quy mô lớn thứ 3 trong khu vực sau Đông Á sau Trung Quốc
và Nhật Bản.
* Văn hóa - xã hội
Hàn Quốc với dân số khoảng hơn 50 triệu người năm 2010, là một trong
những nước có mật độ dân cư cao nhất thế giới với 474 người/km2, có gần 50% dân
số sống ở các thành phố lớn. Nhờ thành công về mặt kinh tế, mức sống của người dân
đô thị Hàn Quốc có phần cao hơn so với hầu hết các nước láng giềng Châu Á khác.
Tính dân tộc của người Hàn Quốc tương đối cao và đã từng có thời gian
thi hành chính sách bài ngoại. Họ không chấp nhận một xã hội đa chủng tộc, đa
sắc tộc như kiểu Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Quan niệm về tính đồng nhất này là
một lý do giải thích vì sao người Triều Tiên ở cả hai miền Nam - Bắc đều cho
rằng sự chia cắt của bán đảo Triều Tiên là hoàn toàn trái với quy luật tự nhiên.
Dù hai miền Nam - Bắc có chế độ chính trị và chính sách kinh tế khác nhau
35
nhưng nhân dân hai miền đều chung một truyền thống văn hóa. Triều Tiên rất
gần gũi với Trung Quốc cả về vị trí địa lý, kinh tế lẫn lịch sử tạo ra một nhịp cầu
văn hóa tự nhiên nối liền quần đảo Nhật Bản với lục địa Châu Á.
Giáo dục luôn được coi là một công cụ của sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên,
trong suốt chiều dài lịch sử chỉ có một số ít các gia đình giàu có mới có thể chu
cấp cho con cái đi học và do vậy việc thúc đẩy xã hội Hàn Quốc đi lên là rất khó
khăn. Nhưng cho đến ngày nay, hệ thống trường học ở Hàn Quốc có quy mô và
mô hình tương tự Mỹ. Cấp tiểu học 6 năm, cấp trung học 6 năm và cao hơn là 4
năm nữa. Bốn năm học ở bậc cao là rất khó khăn và bắt buộc phải thi qua một
kì thi rất khắt khe.
An sinh xã hội được Chính phủ Hàn Quốc quan tâm và bắt đầu được triển
khai thực hiện từ những năm 1980. Hệ thống chính sách liên quan đến vấn đề này
bao gồm việc mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế và hệ thống trợ giúp y tế tương
đương và áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Chính phủ đã tạo nền tảng cho
việc xây dựng một xã hội bảo đảm phúc lợi cho người dân. Nhờ mức sống tăng
và dịch vụ chăm sóc sức khỏe và y tế ngày càng được cải thiện nên tuổi thọ trung
bình của người dân Hàn Quốc tăng nhanh dẫn đến dân số người già tăng đáng kể
trong những năm qua. Nếu năm 1999, dân số ở độ tuổi từ 65 trở lên chiếm 6,9%
trong tổng số dân Hàn Quốc thì năm 2010, tỷ lệ này là 11% và dự kiến sẽ đạt tới
15,7% vào năm 2020.
2.1.2 Những nét đặc trưng và sở thích tiêu dùng của khách du lịch Hàn Quốc
2.1.2.1 Những nét đặc trưng của khách du lịch Hàn Quốc
Hàn Quốc, một quốc đảo đã phát triển những đặc tính dân tộc độc đáo nhờ
tính chất riêng biệt về địa hình và lịch sử. Độ nghiêng của đại dương và lục địa
đã kết hợp với nhau tạo thành cơ sở của bản sắc dân tộc. Là một bán đảo có một
môi trường văn hóa với những đặc điểm ngoại vi và trung tâm. Mặt ngoại vi liên
quan đến nền văn hóa lục địa tràn vào bán đảo, trong khi những yếu tố trung tâm
là kết quả của các nền văn hóa ngoại vi được cấu trúc để hình thành một trung
tâm mới.
36
Nhờ ảnh hưởng của yếu tố này, người Hàn Quốc đã phát triển tình yêu
hòa bình, tình yêu thiên nhiên và họ luôn thể hiện là những người ham học hỏi,
năng động cần cù, coi trọng đạo đức và yếu tố tinh thần.
Trong xã hội truyền thống Hàn Quốc, một gia đình thường gồm các thành
viên thuộc ba, bốn thế hệ cùng chung sống dưới mái nhà. Ở thời đó, tỉ lệ tử vong
của trẻ sơ sinh cao và một gia đình lớn, đông thành viên thường được xem như
có nhiều phúc lộc, nên mọi người luôn mong có nhiều con cháu.
Do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, người con trai cả đảm nhận trách
nhiệm trụ cột trong gia đình, tâm lý trọng nam cũng là một tâm lý phổ biến ở
Hàn Quốc. Để giải quyết những vấn đề liên quan đến tâm lý trọng nam khinh nữ,
Chính phủ Hàn Quốc đã sửa đổi hầu hết các văn bản luật liên quan đến quan hệ
gia đình nhằm đảm bảo sự công bằng giữa nam và nữ về quyền thừa kế.
Quá trình công nghiệp hóa đất nước cũng đã khiến cho đời sống gia đình
của người dân Hàn Quốc trở nên sôi nổi hơn và phức tạp hơn, những đôi vợ chồng trẻ
mới thành hôn tách khỏi đại gia đình bắt đầu cuộc sống riêng. Ngày nay, hầu hết các
gia đình đều là những gia đình hạt nhân với trung tâm là hai vợ chồng.
Không giống như một số nền văn hóa khác chỉ có một tôn giáo thống lĩnh,
văn hóa Hàn Quốc quy tụ nhiều yếu tố thành phần tôn giáo khác nhau hình thành
nên cách suy nghĩ và ứng xử của con người.
Trước đây, lễ hội của người Hàn Quốc chỉ theo nghi lễ tôn giáo. Cho tới
thời kỳ các vương quốc thống nhất, lễ hội tạ ơn trời đã cho vụ mùa bội thu mới
được chính thức tổ chức. Các lễ hội đó là Yeonggo (múa trống gọi hồn) của
Buyeo, Dongmaeng (nghi lễ cúng tổ tiên) của Goguryeo và Mucheon (thiên vũ)
của Dongye. Các lễ hội thường được tổ chức vào tháng Mười, sau mỗi vụ mùa, chỉ
trừ lễ Yoenggo được tổ chức vào tháng Mười hai (tính theo âm lịch). Truyền thống
vui chơi sau vụ thu hoạch mùa thu và đón chào năm mới trong không khí vui vẻ, phấn
chấn còn được kéo dài đến các thời vua và các triều đại sau này, mặc dù mỗi triều đại
vua đều có những sửa đổi riêng cho ngày hội truyền thống có một phong cách riêng.
37
Do nhịp sống của cuộc sống hiện đại, Hàn Quốc ngày nay đã mất đi rất
nhiều ngày lễ truyền thống. Nhưng một số ngày lễ vẫn được kỷ niệm cho tới
ngày nay và đây là dịp để mọi thành viên trong gia đình đoàn tụ. Mọi người đều
mặc áo truyền thống Hanbok hoặc chọn cho mình những bộ quần áo đẹp nhất, cả
gia đình cử hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Sau nghi lễ này, những người ít tuổi
trong gia đình sẽ cúi lạy những người lớn tuổi trong gia đình.
Người Hàn Quốc rất yêu thể thao và tham gia vào rất nhiều các hoạt động
thể thao cùng các trò chơi giải trí. Những bước tiến ấn tượng trong kinh tế những
năm qua đã góp phần tăng cường sự quan tâm của người Hàn Quốc đến thể thao.
Các môn thể thao truyền thống được mọi người ưa thích đó là: bóng đá, trượt
băng tốc độ, trượt băng nghệ thuật, trượt tuyết, khúc côn cầu trên băng, golf,
bóng chày, taekwondo và vật.
2.1.2.2 Sở thích tiêu dùng của khách du lịch Hàn Quốc
Hàn Quốc có tốc độ gia tăng khá cao về lượng khách ra nước ngoài du
lịch (trên 20%/năm). Về số lượng khách ra nước ngoài du lịch tương đương với
số lượng khách du lịch vào Hàn Quốc, thậm chí du lịch đi ra nước ngoài có phần
nhỉnh hơn. Theo thống kê của Cục du lịch quốc gia Hàn Quốc (KNTO - Korea
National Tourism Organization), năm 2011 có tới hơn 15 triệu người dân nước
này đi du lịch nước ngoài. Như vậy, với khoảng 536.408 lượt khách du lịch Hàn
Quốc đến Việt Nam như hiện nay thì chúng ta mới chỉ đón được 3,8 % lượng
khách Hàn Quốc đi du lịch ở nước ngoài.
Điểm đến của du khách Hàn Quốc chủ yếu là Châu Á, chiếm khoảng 70%
tổng số người Hàn Quốc đi du lịch nước ngoài. Trong đó, Nhật Bản và Trung
Quốc là hai điểm đến chính của khách du lịch Hàn Quốc. Ngoài ra người Hàn
Quốc thích đến khám phá Châu Mỹ, tiếp đến là Châu Âu và Châu Đại Dương
Đặc thù của thị trường khách Hàn Quốc đi du lịch nước ngoài là du lịch
theo chuyên đề và du lịch gia đình với các chương trình lựa chọn phong phú, đa
dạng, tiếp đến là du lịch thương mại và du lịch nghỉ dưỡng với các loại hình sau:
38
- Các chương trình du lịch riêng biệt chỉ bao gồm vé máy bay và phòng
khách sạn và thường là khách du lịch ba lô.
- Chương trình du lịch trọn gói đến một nước, một điểm du lịch.
- Chương trình kết hợp giữa du lịch giá rẻ, du lịch phân hạng với du lịch
tiết kiệm, du lịch truyền thống và du lịch chất lượng cao.
- Du lịch chơi golf: các công ty du lịch có nhóm chuyên trách tổ chức các
chương trình chơi golf hay xây dựng một trang web chuyên về tour du lịch chơi golf.
Về căn bản, mục đích ra nước ngoài của người Hàn Quốc là du lịch thuần
túy. Du khách Hàn Quốc ra nước ngoài không chỉ quan tâm đến các danh thắng
thiên nhiên và di tích lịch sử mà còn muốn đến thăm các thành phố lớn, khu vui
chơi giải trí, tắm hơi nghỉ dưỡng phục hồi sức khỏe... Lượng du khách Hàn Quốc
lựa chọn chương trình du lịch cá nhân ngày càng tăng và du lịch theo đoàn đang
giảm dần khi đi du lịch nước ngoài.
Sau khi Chính phủ Hàn Quốc áp dụng thời gian làm việc 5 ngày một tuần
vào năm 2004, nhiều người lao động đã có cơ hội đi du lịch cuối tuần nên thời
gian lưu lại nước ngoài của du khách Hàn Quốc có phần giảm. Khách Hàn Quốc
đi du lịch trung bình khoảng 10 - 11 ngày, đối với khách đi theo tour thì thời gian
lưu trú trung bình là 11 - 13 ngày và đối với khách đi lẻ khoảng 7 - 8 ngày.
Cơ sở lưu trú chính của khách du lịch Hàn Quốc đi ra nước ngoài là Khách
sạn, ngoài ra là nhà gia đình, bạn bè. Khách sử dụng khách sạn nhiều là khách du
lịch công vụ, khách du lịch đi tuần trăng mật và khách du lịch thuần túy.
Thời điểm người Hàn Quốc đi du lịch tương đối dàn đều, tuy nhiên mùa
du lịch cao điểm của khách du lịch Hàn Quốc là tháng 10 đến tháng 3, bắt đầu
giảm từ tháng 4 và tháng 5.
Người Hàn Quốc ra nước ngoài có xu hướng là những người có học vấn
cao, sống ở các đô thị lớn. Với mức sống khá cao, phần lớn người Hàn Quốc
đánh giá chi tiêu dành cho du lịch nước ngoài hiện nay là hợp lý. Theo số liệu
thống kê của Tổ chức du lịch thế giới - UNWTO về chi tiêu của khách du lịch
quốc tế outbound thì chi tiêu nước ngoài của khách du lịch Hàn Quốc gia tăng
39
nhiều vào những năm 2010, 2011. Các đối tượng khách chi tiêu nhiều nhất trong
chuyến du lịch là khách trong độ tuổi 51 - 60 và dưới 20 tuổi. Các nhóm tuổi từ
31 - 50 cũng chi tiêu khá nhiều, còn khách ở nhóm tuổi trên 60 thì chi trả rất ít.
Về mua sắm, du khách nước này thích nhất đồ mỹ phẩm, đồ uống,... khác
với việc mua đồ có chất lượng giá rẻ, xu hướng mua sắm mới hiện nay của họ là
thực phẩm chăm sóc sức khỏe, sản vật địa phương và đồ lưu niệm; một số lại
thích mua quà lưu niệm bán trên máy bay.
Các vấn đề chính khách gặp phải khi đi du lịch nước ngoài chủ yếu là trở ngại
về ngôn ngữ, thức ăn không hợp và sử dụng các phương tiện giao thông địa phương,...
Các xu hướng tìm thông tin du lịch của khách chủ yếu là từ gia đình, bạn
bè và xu hướng tìm thông tin và mua bán chương trình du lịch trên mạng gia tăng
với tốc độ nhanh chóng. Như vậy, biện pháp xúc tiến du lịch tốt nhất đối với thị
trường này là marketing trực tiếp, quảng cáo truyền miệng, mạng internet và đảm
bảo chất lượng dịch vụ để nhóm khách này trở thành khách thường xuyên và ảnh
hưởng đến bạn bè gia đình.
2.1.2.3 Sở thích ăn uống của khách du lịch Hàn Quốc
Người Hàn Quốc rất thích ăn cơm. Cơm nấu bằng gạo hoặc lúa mạch, bắp
hay những loại hạt khác, là lương thực chính của người Hàn Quốc.
Canh có trong mọi bữa ăn của người Hàn Quốc. Các thành phần dùng để
nấu canh có thịt, rau, cá, rong biển, con trai và có thể là xương hay lòng bò, lòng heo.
Các món hầm có ít nước hơn và nhiều thành phần hơn món canh. Tùy vào
thành phần chính của món hầm mà nước tương, tương đậu hay tương ớt có thể
được thêm vào.
Để nấu được món tchim, có thể cho bất kỳ thứ gì bạn thích cùng với gia vị
vào một chiếc nồi đất và om nhỏ lửa thật lâu cho đến khi mềm. Có nhiều kiểu
nấu tchin. Được trộn với tương ớt, món này có thể bảo quản nhiều tuần lễ.
Người ta nướng thực phẩm bằng xiên hoặc bằng vỉ. Bò nướng vỉ là dạng
món nướng phổ biến nhất.
40
Nhiều người thích ăn cá sống thaí mỏng hoặc nấu tái. Cả hai dạng này đều
làm thức nhắm rất tốt và thường được ăn trong những dịp đặc biệt.
Rau có thể được luộc tái hoặc chiên và tẩm với nhiều loại gia vị. Quá trình
trộn, thêm gia vị hay ngâm tẩm phải được làm thủ công để tăng thêm hương vị.
Người Hàn Quốc bảo quản cá, con trai, trứng cá hay ruột cá bằng muối cho
đến khi lên men. Làm như vậy sẽ có những món ăn thêm hay khai vị, tuy hơi mặn
nhưng ngon miệng. Chúng có thể làm gia vị cho món khác, đặc biệt là kim chi.
Bánh gạo được làm từ bột gạo, hấp trong một cái chõ. Những loại bánh
truyeenfthoongs này được làm trong dịp cúng giỗ hay lễ lạc.
Trà xanh, trà ý dĩ, trà chanh hay trà gừng đều rất phổ biến. Có một nghi
thức đặc biệt gọi là trà đạo, được tiến hành khi uống trà.
Bia Hàn Quốc và soju, một loại rượu cất, là những thức uống phổ biến, có
những loại rượu mùi truyền thống rất tuyệt vời như Ch’ongju (rượu gạo lọc),
Insamju (rượu gừng) và Makkolli (rượu gạo thô, không lọc). Mỗi tỉnh có những
loại rượu mùi riêng. Rượu Munbaeju ở Seoul, Igangju Paegilju ở tỉnh
Kyongsangbuk-do, Changgunju ở Chonju và Paegilju ở Kongju là rất nổi tiếng.
Quy cách uống rượu cũng hơi khác nhau ở các địa phương. Khi ai đó muốn đãi
thêm rượu cho bạn, hãy cầm ly lên bằng tay phải và tay trái để hờ dưới đáy ly.
2.1.3 Khái quát về khách du lịch Hàn Quốc đến Hạ Long
2.1.3.1 Tình hình thị trường khách du lịch Hàn Quốc đến Hạ Long
Vịnh Hạ Long điểm đến an toàn và thân thiện trên thế giới với 2 lần được
UNESCO công nhận là Di Sản thế giới vào năm 1994 và năm 2000. Ngày
12/11/2011 Vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là 1 trong 7 kỳ quan thiên
nhiên mới của thế giới. Điều đó đã khẳng định giá trị ngoại hạng mang tính toàn
cầu của vịnh Hạ Long. Vì vậy, khách du lịch quốc tế đến Hạ Long rất nhiều,
trong đó phải kể đến khách du lịch quốc tế Hàn Quốc.
Hợp tác về du lịch thời gian qua đã có những bước phát triển đáng kể. Đặc
biệt, kể từ khi Việt Nam chủ động miễn thị thực xuất nhập cảnh cho khách du
lịch Hàn Quốc. Hàng năm số lượng khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam
41
không ngừng gia tăng. Hiện nay, đầu tư du lịch của Hàn Quốc vào Việt Nam
đang đứng sau Singapore, Đài Loan và Hồng Kông với 76 dự án thuộc lĩnh vực
du lịch, dịch vụ lưu trú và ăn uống với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 490 triệu
USD. Trong những năm tới, một mặt Việt Nam sẽ tích cực ủng hộ, tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư Hàn Quốc xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở du
lịch tại Việt Nam, mặt khác sẽ tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch Việt Nam
tại Hàn Quốc, đặc biệt là quảng bá du lịch Việt Nam thông qua văn hóa.
Diễn đàn Du lịch liên khu vực Đông Á EATOF (East Asia Inter Regional Tourism Forum) gồm 12 thành viên: Quảng Ninh (Việt Nam), Cát Lâm
(Trung Quốc), ChaingMai (Thái Lan), Gangwon (Hàn Quốc), Siêm Riệp
(Campuchia), Luang Prabang (Lào), Tottori (Nhật Bản), Sarawak (Malaysia) và
Premorsky (Nga). Quảng Ninh và tỉnh Gangwon đều là thành viên của EATOF,
đây là điều kiện thuận lợi giúp tăng cường hợp tác, thúc đẩy hoạt động quảng bá
thu hút khách du lịch, mở rộng giao lưu trao đổi kinh nghiệm và các hoạt động
nghiệp vụ để nâng cao năng lực quản lý ngành du lịch, góp phần thành công cuộc
vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và Đảo Cheju (Hàn Quốc)
là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới, nâng cao hình ảnh và vị
thế của Việt Nam nói chung cũng như Quảng Ninh nói riêng trong phạm vi khu
vực và quốc tế.
Ngoài hợp tác song phương, hợp tác du lịch hai nước được tiến hành
thông qua hợp tác du lịch ASEAN với nước đối thoại Hàn Quốc và Trung tâm
ASEAN - Hàn Quốc (AKC), chủ yếu là xúc tiến du lịch. Hàn Quốc đã hỗ trợ đào
tạo tiếng Hàn và đặc trưng của khách du lịch Hàn Quốc cho 04 hướng dẫn viên
Việt Nam tại Hàn Quốc từ tháng 4-6/2006. Năm 2009 và năm 2011, Trung tâm
ASEAN - Hàn Quốc (AKC) đã hỗ trợ Du lịch Việt Nam tổ chức 02 khoá đào tạo
cho 70 cán bộ du lịch Việt Nam, đặc biệt là các hướng dẫn viên tiếng Hàn và các
doanh nghiệp chuyên đón khách Hàn Quốc về đặc trưng thị trường Hàn Quốc.
Đồng thời, hỗ trợ gian hàng để Du lịch Việt Nam tham gia Hội chợ Du lịch
ASEAN tại Seoul. Tháng 4/2012, trong khuôn khổ hợp tác giữa Du lịch Việt
42