1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Văn hóa - Lịch sử >

CHƯƠNG I: SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 113 trang )


thoại hóa và truyền thuyết hóa. Lúc bấy giờ do con ngƣời chƣa có chữ viết, nên những sự

kiện lịch sử chỉ đƣợc lƣu truyền lại bằng truyền miệng từ thời này qua thời khác. Thời gian đã

trải qua khá lâu, những thế hệ sau cũng không biết những gì mà mình nghe đƣợc có phải là sự

thực không. Việc lƣu truyền bằng miệng các câu chuyện lịch sử, ngoài việc bị "tam sao thất

bản" có lẽ con ngƣời cũng cần truyền thuyết hoá các câu chuyện cho li kì, hấp dẫn để dễ

thuộc, dễ nhớ.

Những hạn chế nói trên đã đƣợc khắc phục khi chữ viết ra đời. Sự phát minh ra chữ

viết đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nhận thức lịch sử của con ngƣời trong thời

kì công xã nguyên thủy.

Nhờ có chữ viết, một phƣơng tiện để con ngƣời ghi chép lại những sự kiện xảy ra

trong đời sống hàng ngày. Nhờ sự ghi chép đó mà giúp con ngƣời phân biệt đâu là những sự

kiện có thực và đâu là những sự kiện chỉ có trong truyền thuyết và huyền thoại. Thời gian

nhƣ đƣợc kéo dài ra bởi nó đƣợc nêm chặt bởi những sự kiện đƣợc ghi chép lại. Và cũng nhờ

sự ghi chép đó mà con ngƣời biết đƣợc sự vận động của thời gian theo chiều thẳng đứng đi từ

quá khứ đến hiện tại, đến tƣơng lai không bao giờ trở lại,.

Để tồn tại và phát triển, con ngƣời không ngừng sáng tạo và cải tiến công cụ lao động.

Nhờ sự cải tiến công cụ lao động mà lực lƣợng sản xuất không ngừng phát triển, năng suất

lao động không ngừng đƣợc tăng lên, xã hội phân chia thành kẻ giàu ngƣời nghèo. Giai cấp

và nhà nƣớc xuất hiện, xã hội loài ngƣời bắt đầu bƣớc vào thời đại văn minh. Việc xã hội loài

ngƣời bƣớc vào thời kì văn minh, nhận thức của con ngƣời, trong đó có nhận thức lịch sử có

điều kiện phát triển, nhận thức đƣợc nâng lên một tầm hiểu biết mới cả về tri thức lịch sử lẫn

hình thức thể hiện. Trong thời cổ đại, xã hội loài ngƣời đã bƣớc đầu đạt đƣợc những thành

tựu trong nhận thức và thể hiện lịch sử.



II. Sử học thế giới thời cổ đại

1. Hoàn cảnh ra đời

Sự chuyển biến của xã hội từ không có giai cấp sang xã hội có giai cấp và nhà nƣớc là

một bƣớc phát triển của xã hội loài nguời. Tuy việc xuất hiện giai cấp và nhà nƣớc đã dẫn

đến tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời nhƣng mặt tích cực của nó là từ đây xã hội đã đƣợc tổ

chức và có trật tự nhờ



13



những quy định hay những điều luật bắt buộc tất cả mọi ngƣời trong xã hội đều phải tuân thủ.

Để cũng cố và duy trì sự thống trị của mình, giai cấp thống trị đã biết sử dụng những

tri thức khoa học để làm công cụ thống trị, khống chế và đàn áp giai cấp bị trị. Giai cấp thống

trị tạo điều kiện cho một số ngƣời có khả năng chuyên tâm nghiên cứu khoa học. Việc xuất

hiện một bộ phận những ngƣời không phải trực tiếp lao động sản xuất làm ra của cải vật chất

để chuyên vào việc nghiên cứu khoa học làm cho khoa học bắt đầu ra đời. Làm khoa học

cũng đƣợc coi là một nghề mà trong các ngành nghề khoa học đó có nghề viết sử. Nhƣ vậy

việc nhận thức lịch sử từ nhu cầu và công việc của tất cả mọi ngƣời trong xã hội đã trở thành

một nghề của một số ít ngƣời chuyên viết lịch sử. Họ viết sử để phục vụ cho giai cấp thống

trị, cho nhà nƣớc đã nuôi sống họ.

Bên cạnh nền sử học chính thông của giai cấp thống trị, nhân dân lao động vốn rất

yêu thích lịch sử, vẫn ghi nhớ lịch sử và dùng tri thức lịch sử để giáo dục cho các thế hệ con

cháu. Xuất phát từ địa vị khác nhau, có chỗ đứng và lợi ích khác nhau nên đã hình thành nên

những cách nhìn nhận khác nhau về lịch sử. Điều đó nó phản ánh những quan điểm khác

nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp lúc bấy giờ mà biểu hiện cụ thể của nó là đấu tranh trên

lĩnh vực nhận thức lịch sử.

Sử học trong xã hội có giai cấp nói chung và trong xã hội chiếm hữu nô lệ nói riêng

đƣợc hình thành và mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, phục vụ cho giai cấp thống trị.

Các nhà sử học, các nền sử học thời cổ đại đã hình thành trong bối cảnh lịch sử đó.

Do ra đời ở những vùng đất khác nhau, có những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau nên đã

hình thành các nền sử học khác nhau ở phƣơng Đông và phƣơng Tây.

2. Sở học phương Đông thời cổ đại

2.1. Cơ sở hình thành

Xã hội phƣơng Đông xuất hiện trên lƣu vực những con sông lớn nhƣ sông Nil ở Ai

Cập, sông Hoàng Hà và Trƣờng Giang ở Trung Quốc, sông Ấn (Indus) và sông Hằng

(Gange) ở Ấn Độ, sông Tigrơ và Ơphrát ở Lƣỡng Hà... Lƣu vực của những con sông này là

những vùng đồng bằng phì nhiêu, có khí hậu ấm áp, nguồn nƣớc phong phú, đất đai màu

mỡ... là những



14



điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Từ những trung tâm nông nghiệp này đã hình

thành nên những nền văn minh từ rất sớm. Ngƣời phƣơng Đông cổ đại đã sớm phát hiện và

lợi dụng những thuận lợi để phát triển sản xuất và xây dựng nên nền văn minh của mình.

Tuy nhiên các quốc gia cổ đại bị ngăn cách bởi hệ thống núi non trùng điệp, những sa

mạc mênh mông, sông sâu, biển rộng... mà phƣơng tiện giao thông còn hạn chế lúc bấy giờ

đã làm cho những nền văn minh các nƣớc phát triển một cách độc đáo, mang đậm bản sắc

dân tộc.

Sức sản xuất ở trình độ thấp nên ở phƣơng Đông không phát triển chế độ chiếm hữu

nô lệ một cách điển hình. Chế độ tƣ hữu ruộng đất phát triển yếu ớt, công xã nông thôn tồn

tại dai dẳng, tính chất của xã hội thị tộc nguyên thủy đã gây nên tình trạng trì trệ, yếu kém

của nền văn minh phƣơng Đông.

Về mặt xã hội, phƣơng Đông cổ đại tồn tại một hình thức nhà nƣớc đặc thù, nhà nƣớc

quân chủ chuyên chế trung ƣơng tập quyền mà mọi quyền lực đều ở trong tay nhà vua và một

bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu... Chế độ nô lệ gia trƣởng và các hình thức bóc lột kiểu

gia trƣởng tồn tại lâu dài cũng là một yếu đặc thù của xã hội phƣơng Đông.

Hoàn cảnh tự nhiên và xã hội trên đây đã ảnh hƣởng không nhỏ đến nền sử học

phƣơng Đông từ quan niệm về mục đích viết sử, vể hình thức phản ánh và trình bày sử học...

2.2. Sử học phương Đông thời cổ đại

2.2.1 Sử học Trung Quốc

Bối cảnh lịch sử:

Trung Quốc là một trong những nền văn minh lớn của phƣơng Đông cổ trung đại.

Cũng nhƣ các nƣớc khác ở phƣơng Đông, Trung Quốc có hai dòng sông Hoàng Hà và

Trƣờng Giang chảy qua đều dài trên 4000 kilômét đã tạo điều kiện cho Trung Quốc phát triển

nông nghiệp từ rất sớm. Cƣ dân ở đây có kinh nghiệm làm thủy lợi, trồng kê, cao lƣơng, dệt

vải, đúc đồng. Chính sự thống nhất hai trung tâm nông nghiệp Hoàng Hà và Trƣờng Giang đã

hình thành nên nền văn minh Trung Quốc.

Khoảng thiên niên kỷ II TCN xã hội có giai cấp và nhà nƣớc đầu tiên của Trung Quốc

đã hình thành trên lƣu vực sông Hoàng Hà. Từ địa bàn chủ yếu vùng lƣu vực sông Hoàng Hà,

các triều đại ở Trung Quốc đã xâm



15



chiếm đất đai, mở mang bờ cõi về phía Nam, vì thế địa bàn của Trung Quốc dần dần đƣợc

mở rộng đến tận lƣu vực sông Trƣờng Giang.

Cƣ dân của Trung Quốc ở lƣu vực sông Hoàng Hà lúc đầu gọi là bộ tộc Hạ hoặc Hoa

Hạ, là tổ tiên của ngƣời Hán sau này. Còn ở lƣu vực sông Trƣờng Giang có các nƣớc Sở,

Ngô, Việt... sinh sống có ngôn ngữ và phong tục tập quán khác với cƣ dân vùng Hoàng Hà.

Trong thời Xuân Thu, trải qua quá trình tiếp xúc, cƣ dân ở đây đã đồng hóa với ngƣời Hoa

Hạ. Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, cƣ dân ở đây không những có cùng lãnh thổ mà

còn có cộng đồng về sinh hoạt kinh tế, ngôn ngữ, chữ viết và tâm lí... đã hình thành nên một

dân tộc ổn định. Ngƣời Trung Quốc đã tự cho mình ở giữa là trung tâm của tinh hoa nên còn

gọi là Trung Hoa, còn các dân tộc khác ở xung quanh đều lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung,

Địch...

Quyền lực của giai cấp thống trị đƣợc mở rộng bao gồm địa chủ, quí tộc, quan lại

(vƣơng hầu, tôn thất, quan lại lớn trong triều đình...). Cũng nhƣ các quốc gia cổ đại phƣơng

Đông khác, do những yếu tố tự nhiên và xã hội chi phối Trung Quốc tồn tại hình thức nhà

nƣớc quân chủ chuyên chế trung ƣơng tập quyền, vua có quyền lực vô hạn đƣợc coi là Thiên

Tử, còn chính quyền nhà nƣớc đƣợc gọi là Thiên triều. Nhờ quyền lực vô hạn, nhà nƣớc

Trung Quốc đã huy động sức mạnh to lớn của thần dân tạo nên một nền văn minh rực rỡ từ

rất sớm.

Bên cạnh những kinh nghiệm và thành tựu về sản xuất nông nghiệp, ngƣời Trung

Quốc cũng đã có những thành tựu văn minh về khoa học kĩ thuật, về kiến trúc, nghệ thuật. Hệ

thống đền đài, lăng tẩm, hoàng cung, công trình kiến trúc Vạn lí Trƣờng thành... là những

kiệt tác tầm cỡ thế giới. Đặc biệt là bốn phát minh về kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc

súng, la bàn đã khẳng định những đóng góp to lớn của nền văn minh Trung Quốc vào nền

văn minh nhân loại. Những học thuyết về tƣ tƣởng - tôn giáo đã ra đời nhƣ Nho giáo, Lão

giáo, Đạo giáo... có ảnh hƣởng, chi phối to lớn đến tƣ tƣởng xã hội, trong đó có sử học.

Trên cái nền kinh tế - văn hóa đó nền sử học Trung Quốc từ rất sớm đã ra đời và phát

triển.

Những thành tựu sử học

Trung Quốc là một nƣớc rất coi trọng sử học trên thế giới, vì thế ngay từ thời cổ đại

mầm mống sử học đã xuất hiện từ rất sớm. Cũng nhƣ các dân



16



tộc trên thế giới con ngƣời trong xã hội nguyên thủy Trung Quốc ghi nhớ về những truyền

thuyết của thị tộc, bộ lạc và quá trình phát triển của thị tộc bộ lạc đó. Họ kể lại một cách hệ

thống và hấp dẫn cho hậu thế những điều ghi nhớ ấy bằng truyền khẩu, khắc vào đá hay bằng

văn tự kết thừng. Những ngƣời làm việc đó có thể là những ngƣời tộc trƣởng hay những thầy

phù thủy.

Truyền thuyết Trung Quốc cho rằng ngay từ thời Hoàng Đế, Trung Quốc đã có sử.

Lúc bấy giờ đã xuất hiện những sử gia nhƣ Đại Náo, Thƣơng Hiệt mà tên tuổi còn lƣu lại đến

bây giờ. Tuy nhiên những cứ liệu đáng tin cậy về sự xuất hiện những tri thức lịch sử sớm

nhất ở Trung Quốc là vào đời nhà Thƣơng. Trong các văn tự giáp, cốt ngƣời ta đã phát hiện

ra những tƣ liệu lịch sử có giá trị và có thể xem là mầm mống của sự ra đời của sử học.

Đời Hạ có sử quan Chung Cổ, đời Thƣơng có Hƣớng Chấp, đời Chu có Sử Dật, Chu

Nhiệm, Sử Trụ. Thời Chu, trong bộ máy nhà nƣớc có các viên quan - những ngƣời "thƣ kí"

chuyên lo việc giấy tờ của triều đình. Ngoài việc trông coi, soạn thảo các giấy tờ cho vua, các

thƣ kí còn có nhiệm vụ ghi chép các sự việc xảy ra chủ yếu ở trong cung đình mà ngƣời ta

gọi là sử quan. sử quan còn đƣợc chia thành các loại: Thái sử (Tả sử), tiểu sử, nội sử ( Hữu

sử), ngoại sử, ngự sử...

Cùng với những nhiệm vụ khác nhau nên sử quan cũng đƣợc phân chia theo các công

việc đƣợc đảm nhận nhƣ:

Quan nội sử chuyên lo viết các mệnh lệnh của nhà vua để ban bố trong nƣớc.

Quan ngoai sử lo việc đối ngoại, bang giao với bên ngoài nhƣ truyền lệnh nhà vua

cho các chƣ hầu.

Quan ngự sử chuyên viết các bài ca ngợi công đức của nhà vua.

Quan thái sử chuyên ghi chép những sự việc xảy ra trong triều đình, và một phần

những công việc xảy ra trong dân chúng.

Nghề viết sử lúc bấy giờ đã có những quan niệm về đạo đức nghề nghiệp, có sử quan

luôn trung thực, giữ vững lập trƣờng, khí tiết của mình dù bị đe dọa, trấn áp, thà chết chứ

không chịu chép sai sự thực. Ở trung Quốc còn lƣu truyền câu chuyện vào thời Xuân Thu ở

nƣớc Tề có các quan chép sử luôn tôn trọng sự thật, dù tín mạng bi uy hiếp. Các nhà chép sử

Thái sử Bá, Thái sử Trọng, Thái sử Thúc, Thái sử Quý và Nam sử Thị sống



17



vào thế kỉ thứ VI TCN. Lúc bấy giờ, Thôi Trữ đã giết vua để cƣớp ngôi nhƣng lại bắt Thái sử

Bá chép là "Tiên quân bị bệnh mà băng hà". Nhƣng Thái sử Bá vẫn chép: "Mùa Hạ, tháng

năm, Thôi Trữ mƣu sát Quốc quân Quang (tên tục Tề Trang Công)". Hai ngƣời em của Thái

sử Bá là Thái sử Trọng và Thái sử Thúc cũng chấp nhận chết để viết sự thật nhƣ anh của

mình, vì "làm chức thái sử chỉ sợ không trung thực chứ không sợ chết". Thôi Trữ phải khuất

phục trƣớc sự khảng khái của ba anh em Thái sử Bá mà chấp nhận tha chết cho hai ngƣời còn

lại.

Mặc dù vậy, nhƣng vì phần lớn các sử quan đều hƣởng lộc của triều đình nên luôn

trung thành với nhà vua, ghi chép mọi sự việc có liên quan đến nhà vua, phục vụ cho triều

đình mà ít đề cập đến đời sống của của nhân dân lao động. Nếu có đề cập đến quần chúng

nhân dân thì cũng đƣợc nhắc tới nhƣ là giặc giã, nổi loạn.

Những nhà sử học tiêu biểu

KHỔNG TỬ (551- 479 TCN)

Khổng Tử tên là Khổng Khâu, hiệu là Trọng Ni, ngƣời nƣớc Lỗ. Cha của Khổng Tử

tên là Thúc Lƣơng Ngột vốn là một quan võ có dòng dõi quý tộc. Mẹ là Nhan Chinh Tại, vợ

thứ của Thúc Lƣơng Ngột, kém chồng rất nhiều tuổi. Hai ngƣời lấy nhau đã lâu nhƣng không

có con, trong lúc Thúc Lƣơng Ngột lại nóng lòng muốn có đứa con trai nên hai ngƣời đã đƣa

nhau lên núi Ni Khâu xin thần Núi phù hộ cho sớm sinh quý tử. Quả nhiên sau đó Nhan

Chinh Tại mang thai và đến năm Lỗ Tƣơng Công thứ 22 ( 551 TCN) sinh đƣợc một con trai

kháu khỉnh. Thúc Lƣơng Ngột rất lấy làm vui mừng và đặt tên con là Khổng Khâu, tên chữ là

Trọng Ni, tức là đứa con trai thứ hai sinh ra nhờ cầu khấn ở núi Ni Khâu.

Khi Khổng Tử mới lên ba tuổi, cha của ông qua đời, vì thế hai mẹ con ông đã phải

sống một cuộc đời rất cực khổ. Ngƣời vợ cả của Thúc Lƣơng Ngột không cho Nhan Chinh

Tại đi đƣa tang chồng và đối xử bất công với mẹ con Khổng Tử.

Mẹ con ông phải dắt díu nhau đến Khúc Phụ vốn là nơi đô thành của nƣớc Lỗ. Là một

phụ nữ giàu nghị lực, mẹ Khổng Tử đã làm đủ mọi nghề để kiếm sống và nuôi con khôn lớn.

Khúc Phụ vốn là nơi đô hội lúc bấy giờ, chỉ thua kém Lạc Ấp vì thế nơi đây còn lƣu giữ

những tục lệ, phép tắc và văn hóa truyền thống của Trung Hoa. Vốn là ngƣời thông minh và

hiếu



18



động, từ tóc còn nhỏ Khổng Tử đã thích thăm viếng những đền đài, lăng tẩm, quan sát những

bậc kì lão trang nghiêm tế lễ. Ngoài việc học tập văn chƣơng, Khổng Tử chú trọng đến

những suy ngẫm về đạo đức nhƣ hiếu đễ với mẹ, kính nhƣờng ngƣời lớn, thƣơng ngƣời nhƣ

thể thƣơng thân...

Đến năm 30 tuổi, "tam thập nhi lập" nhƣ ông đã từng nói, Khổng Tử mở trƣờng dạy

học. Đây là một bƣớc ngoặt quan trọng trong cuộc đời của ông, đánh dấu sự trƣởng thành của

ông. Khổng Tử đã có một học vấn vững chắc trên con đƣờng học tập và tu chính đạo đức.

Tiếng tăm và đức hạnh đƣợc nhiều ngƣời biết đến, ông đƣợc vua nƣớc Lỗ trao cho chức

Trung đô tễ. Đến năm 52 tuổi ông đƣợc thăng chức Tƣ không kiêm Đại tƣ khấu. Và đến năm

56 tuổi, ông đƣợc vua phong cho chức Tƣớng quốc.

Tuy quyền cao chức trọng nhƣng Khổng Tử vẫn một mực khiêm cung, lời nói hòa ái

mà cƣơng trực giúp cho quyền thế nhà vua trở nên mạnh mẽ, địa vị nƣớc Lỗ trở nên hùng

cƣờng. Trong thời gian làm tƣớng quốc, ông đã giúp vua thu hồi những phần đất bị thôn tính

bởi ngoại bang, bộ máy cai trị của nƣớc Lỗ vận hành một cách trôi chảy, dân chúng tin tƣởng

và sống theo lễ nghĩa, nhiệt thành với vua và quốc gia đại sự.

Nhƣng chốn quan trƣờng đã làm ông thất vọng, vào năm 68 tuổi ông cáo quan trở về lo

việc đèn sách với ba việc lớn: Suy ngẫm đạo lí, thuật kinh sách và giáo huấn đệ tử.

Trung Quốc dƣới thời nhà Chu, các nƣớc chƣ hầu thƣờng xuyên đánh nhau để tranh

giành đất đai, quyền lực. Xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ bất ổn, nền nền kỷ cƣơng bị đảo lộn.

Nhân dân oán trách vì đời sống của họ rất cực khổ. Trong bối cảnh đó, Khổng Tử muốn đƣa

ra những cải cách xã hội, lấy Nhân và Lễ làm hạt nhân tƣ tƣởng chính trị của mình. Khổng

Tử đã nêu một số tấm gƣơng đạo đức, nghĩa hiệp trong lịch sử để răn dạy ngƣời đƣơng thời,

góp phần vào việc giữ gìn trật tự phong kiến. Tƣ tƣởng sử học của Khổng Tử đƣợc tập hợp

trong các bộ kinh nhƣ Kinh Thi, Kinh Thƣ, kinh Xuân Thu...

Kinh Thi

Là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học đầu tiên của Trung Quốc tập hợp

những sáng tác trong khoảng 500 năm từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu. Kinh

Thi trƣớc đó gọi là Thi sau đó đƣợc Khổng Tử san định lại và gọi là Kinh Thi.



19



Lúc đầu Thi có trên 3000 bài nhƣng Khổng Tử đã ''bớt những thiên trùng điệp, lấy

những thiên có ích cho lễ, nghĩa". Dƣới thời Tần Thủy Hoàng do chính sách phản văn hóa

của nhà Tần, "đốt sách, chôn học trò" nên nên Kinh Thi cùng chung số phận với các cuốn

sách quý khác, đều bị đem đốt. Rất may là Kinh Thi đƣợc viết bằng thể thơ nên đƣợc nhiều

ngƣời còn nhớ và lƣu truyền đến ngày nay. Bản lƣu truyền đến ngày nay là bản Mao Thi có

305 bài, chia làm 3 phần là Phong (còn gọi là Quốc phong), Nhã (gồm Đại nhã và Tiểu nhã),

Tụng (Chu tụng, Thƣơng tụng, Lỗ tụng...).

Phong là phần tập hợp dân ca của các nƣớc, là phần tinh túy, giá trị nhất của Kinh

Thi, nó phản ánh sinh động và chính xác cuộc sống sinh hoạt của ngƣời dân Trung Quốc thời

bấy giờ. Ngoài những bài vịnh cảnh, hay nói đến đời sống sinh hoạt của tầng lớp quý tộc,

những bài trong Quốc phong cho thấy những tình cảnh nhân dân và bộ mặt của vua quan

phong kiến lúc bấy giờ.

Một phần quan trọng trong Quốc Phong là nói về tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng

thể hiện dƣới nhiều sắc thái rất phong phú và đa dạng. Những tình cảm cao đẹp khác nhƣ tình

yêu thƣơng và biết ơn cha mẹ, tình bạn bè, sự thông cảm giữa ngƣời với ngƣời trong những

hoàn cảnh khó khăn, ca tụng những ngƣời tài đức, phê phán những thói xấu... cũng đƣợc

trình bày trong Kinh Thi.

Nhã là phần phản ánh những sinh hoạt của quý tộc phong kiến trong cung đình. Đại

nhã là phần nội dung phản ánh sinh hoạt của đại quý tộc và tiểu nhã phản ánh sinh hoạt của

tiểu quý tộc. Nhiều bài miêu tả cách sinh hoạt, phục sức của các quan lại, ông hoàng, bà

chúa... Đây là phần chứa đựng tƣ liệu lịch sử nhiều nhất trong Kinh Thi, nó cho chúng ta

hình dung đƣợc bộ mặt xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, nhất là đời sống của tầng lớp quý

tộc.

Tụng là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ và bói toán sáng tác dùng để hát,

khấn vái khi cúng tế ở miếu đƣờng. Tụng bao gồm các bài tụng của các nƣớc lớn lúc bấy giờ

nhƣ Chu tụng, Lỗ tụng, Thƣơng tụng. Do là những bài ca tụng công đức của các vua nến đây

cũng phần có chứa đựng những tƣ liệu lịch sử. Các bài Huyền vu, Sinh dân, Công lƣu trong

kinh thi thực chất là những sử thi anh hùng về tổ tiên của ngƣời Thƣơng, Chu.

Phƣơng pháp biên soạn Kinh Thƣ cũng rất phong phú và đa dạng, làm tăng thêm khả

năng biểu đạt của tác phẩm. Kinh thi đƣợc viết theo 3 thể:



20



phú, tỉ và hứng. Phú là miêu tả, phô bày sự việc một cách trực tiếp và biểu hiện thái độ của

tác giả trong đó, nhƣ các phần Cốc Phong, Thƣơng Trọng Tử, Thất Nguyệt... Tỉ là so sánh,

ẩn dụ mƣợn một vật một sự kiện nào đó để ám chỉ điều muốn diễn tả nhƣ các bài Thạc thử,

Xi Hào... Hứng là nói quanh co để đƣa đẩy vào chủ đề chính nhƣ Quan Thƣ, Đào Yêu, Ân Kì

Lôi...

Khổng Tử đã đặt ra một số nguyên tắc về phƣơng pháp trong khi biên soạn Kinh Thi

nhƣ chổ nào rời rạc, không mạch lạc hoặc thiếu sót thì so sánh đối chiếu với các bản ghi chép

để bổ sung và hoàn thiện. Sự thống nhất về văn thể và ngôn từ trong suốt toàn bộ tác phẩm đã

chứng tỏ tính chất xác thực của văn bản, vì vậy chúng ta có thể coi Kinh Thi là một cuốn tài

liệu "tín hữu tín trung”(1) cung cấp cho ngƣời đời sau những sự kiện xác thực để nghiên cứu

về lịch sử.

Trong Luận ngữ - Dƣơng hóa, các học trò của Khổng Tử đã ghi chép lại lời của ông

nhƣ sau: Các trò sao không học Kinh Thi ? Thi có thể làm cho ta phấn khởi, có thể giúp ta

mở rộng tầm nhìn, có thể làm cho mọi ngƣời đoàn kết với nhau, có thể làm cho ta biệt oán

giận. Gần thì có thể vận dụng để thờ cha, xa thì thờ vua. Lại biết đƣợc nhiều tên chim muông

cây cỏ.

Kinh Thi không chỉ có giá trị về văn học mà còn là một tác phẩm phản ánh hiện thực

tình hình xã hội Trung Quốc đƣơng thời. Qua Kinh Thi chúng ta có thể hiểu đƣợc tâm tƣ tình

cảm, nguyện vọng cũng nhƣ phong tục tập quán của nhân dân Trung Quốc. Kinh Thi đƣợc

các nhà nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tƣ tƣởng của nó. Dù bất cứ ở phần nào, ít hay

nhiều Kinh Thi cũng phản ánh những sinh hoạt xã hội, những tấm gƣơng trong lịch sử, những

mối quan hệ quốc gia, xã hội và quan niệm về xã hội, con ngƣời. Đây là những tƣ liệu sử học

quý giá để lại cho đời sau.

Kinh Thƣ

Để thực hiện ý định truyền bá tƣ tƣởng Nho giáo, Khổng Tử đã san định Kinh Thƣ

chép những điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh... của vua tôi dạy bảo, khuyên răn nhau từ thời

vua Nghiêu, vua Thuấn cho đến đời Đông Chu (2357 - 770 TCN).



(1)



Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu (1922), Kinh Thi, NXB TP. HCM, tr. 23.



21



Kinh Thƣ không chỉ đƣợc coi là cuốn sử cổ nhất Trung Quốc mà còn đƣợc coi là bộ

sử sớm nhất phƣơng Đông (còn gọi là thƣợng thƣ) với cách sắp xếp căn bản theo trật tự thời

gian, gồm các phần sau:

Phần thứ nhất: Ngu Thƣ (sách chép đời nhà Ngu). Ngu là họ vua Thuấn, khi vua

Thuấn lên làm vua thì lấy họ mà đặt tên cho triều đình của mình. Ngu thƣ gồm có 5 thiên :

Thiên đầu là Nghiêu điển chép về điển phạm, đức nghiệp của vua Nghiêu. Khổng Tử

chỉ ra sáu đức tính tuyệt vời của vua Nghiêu đó là kính cẩn, sáng suốt, văn minh, khiêm tốn,

suy nghĩ sâu sắc, có tình có lý.

Thiên thứ hai là Thuấn điển, chép về điển phạm, đức nghiệp của vua Thuấn. Khổng

Tử nhận xét : Đến nhƣ xét về vua Thuấn xƣa quang hoa cũng hợp với đức Vua (vua Nghiêu),

sâu sắc, khôn ngoan, văn vẽ, sáng suốt, hòa nhã, thành thật... Đức ngầm thấu tới đức Vua,

Vua bèn trao cho chức vụ.

Thiên thứ ba là Đại Vũ mô, ghi chép những mƣu mô trị nƣớc của Vũ đề nghị lên vua

Thuấn.

Thiên thứ tƣ là Cao Dao mô, mƣu mô của Cao Dao đề nghị lên vua Vũ. Thiên thứ

năm là Ích Tắc mô, ghi chép những mƣu mô của Ích và Tắc. Phần hai: Hạ Thƣ là sách viết

về đời Nhà Hạ.

Thiên đầu là Vũ cống: Vũ tức Đại Vũ là Chúa đất Sùng đƣợc vua Thuấn truyền ngôi

cho. Cống có hai nghĩa, một là những thứ mà các chƣ hầu phải cống nạp cho Thiên tử, hai là

từ chung dùng để chỉ các thứ thuế đời nhà Hạ. Vũ cống có nghĩa là những phép cống do Vũ

định ra.

Thiên hai là Cam Thệ, lời thệ sƣ ở đất Cam khi Đế Khải đi đánh họ Hữ Hộ.

Thiên ba, Ngũ tử chi ca, bài ca của năm ngƣời em khuyên vua Thái Khang tránh việc

ăn chơi vô độ.

Thiên bốn, Dận chinh nói về Dận hầu đi chinh phạt họ Hy và họ Hòa. Hy và Hòa

đƣợc giao coi về thiên văn từ đời vua Nghiêu nhƣng do mê rƣợu chè nơi thái ấp, trễ nải công

việc, không báo trƣớc đƣợc tin nhật thực nên bị thiên tử phái Dận hầu đi đánh.

Phần ba: Thƣơng Thƣ - sách nói về thời nhà Ân - Thƣơng. Thƣơng thƣ gồm các nội

dung sau:

- Thang thệ - lời thệ của Thang khi cất quân đánh vua nhà Hạ là Kiệt.



22



- Trọng Hủy chi cáo - lời ông Trọng Hủy giải thích hành động của vua Thang.

- Thang cáo - bố cáo của vua Thang sau khi tiêu diệt nhà Hạ với lời lẽ giản dị, dễ hiểu

để khuyên bảo các chƣ hầu một cách sâu sắc, phù hợp với lợi ích của họ.

- Y huấn - lời của Y Huấn dạy bảo vua Thái Giáp lúc mới lên ngôi.

- Tháp Giáp thƣợng, trung, hạ nói về những lời hối lỗi của Thái Giáp.

- Hàm hữu nhất đức, lời huấn của Y Doãn với vua Thái Giáp trƣớc khi ông về nghĩ.

- Duyệt mệnh thƣợng, trung, hạ, nói về việc Ân Cao Tông lên ngôi do không tìm

đƣợc ngƣời tài mà ba năm không nói và làm việc lớn, khi tìm đƣợc ngƣời tài Phó Duyệt thì

trao quyền và nghe theo.

- Tây Bá kham Lê nói về Tây Bá (Văn Vƣơng nhà Chu). Vua Trụ (Đế Tân) là ông

vua cuối cùng của nhà Thƣơng cho Tây Bá quyền đƣợc đánh các nƣớc chƣ hầu. Tổ Y thấy

Tây Bá diệt nƣớc Lê, một nƣớc chƣ hầu, lo sợ thế nhà Chu ngày càng lớn nên đã vào thƣa với

vua Trụ.

- Cao Tông dung nhật, nói về điềm gỡ nghe chim trĩ gáy lúc vua Cao Tông cúng bái

trong ngày lễ Dung.

- Vi tử, nói về anh vua Trụ định cứu em nhƣng không thành.

Phần bốn: Chu Thƣ - sách về đời nhà Chu gồm các phần sau đây :

- Thái thệ (thƣợng, trung, hạ) nói về những lời răn quân sĩ của Chu Vũ Vƣơng khi đi

đánh vua Trụ nhà Thƣơng.

- Mục thệ, lời thệ sƣ của Văn Vƣơng ở cánh đồng Dã Mục.

- Hồng Phạm nói về chín phạm trù lớn về chính trị, triết học, đạo đức để trị nƣớc. Nội

dung của thiên Hồng Phạm là khái quát toàn bộ học thuyết về chính trị, về tổ chức và quản lí

xã hội thời Ân Thƣơng.

- Kim Đằng, nói về Chu Công khấn tổ tiên xin chết thay vua.

- Đa sĩ, Chu Công kêu gọi các sĩ phu nhà Ân khi mới sang Lạc Ấp. Chu Thƣ còn có

nhiều phần khác nữa.

Trong Kinh thƣ, Khổng Tử trình bày mục đích viết Kinh Thƣ cũng là mục đích viết

sử của mình là: khẳng định mình không chỉ ghi lại những sự kiện lịch sử một cách khách

quan mà còn đƣa ra những tấm gƣơng nhân vật lịch sử có đầy đủ những đức tính theo quan

niệm của Nho giáo.

Kinh Thƣ khuyên con ngƣời hành động theo Thiên lý: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Tức

là con ngƣời phải rèn luyện để tâm thần thƣ thái,



23



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

×