Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 113 trang )
quyển sử biên niên của nƣớc Lỗ. Khổng Tử biên soạn lại thành sách Xuân Thu. Đó là quyển
sử do tƣ nhân biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc.
Tác phẩm này ghi chép các sự kiện lịch sử trong 242 năm (722 - 481 TCN). Sách
Xuân Thu cô đọng, ngắn gọn, toàn bộ sách chỉ có 18.000 chữ nhƣng đã ghi chép các sự kiện
lịch sử lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao của 124 nƣớc chƣ hầu.
Ngoài sách Xuân Thu, còn có các tác phẩm khác nhƣ Thƣợng Thƣ (Kinh Thi ), Chu
Lễ... cũng là những tài liệu lịch sử quí giá để nghiên cứu tình hình chính trị, chế độ quan lại,
lễ nghi lúc bấy giờ.
Thời Chiến quốc có các sách nhƣ Tả truyện, Quốc Ngữ, Chiến quốc sách, Lã Thị
Xuân Thu là những tác phẩm sử học rất có giá trị.
Thời Tây Hán, sử học Trung Quốc bắt đầu trở thành một lĩnh vực độc lập mà ngƣời
đặt nền móng đầu tiên là Tƣ Mã Thiên.
TƢ MÃ THIÊN
Tƣ Mã Thiên hiệu là Tử Trƣờng sinh năm 145 TCN tại Long Môn, nay là huyện Hàm
Thành, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Tổ tiên ông từ đời nhà Chu đã từng làm đến Thái sử.
Cha ông là Tƣ Mã Đàm, một thái sử lệnh của nhà Hán. Tƣ Mã Đàm rất yêu cái nghề ngự sử
của mình, coi đó là một nghề cao quý vì nó có tác dụng to lớn đến hƣng thịnh, suy vong của
một quốc gia. Là ngƣời tinh thông nhiều lĩnh vực nên ngoài việc viết sử, ông còn coi thiên
văn, bói toán, làm lịch... Chính ngƣời cha Tƣ Mã Đàm đã ảnh hƣởng rất lớn đến tính cách và
tƣ tƣởng của Tƣ Mã Thiên.
Thời thơ ấu, Tƣ Mã Thiên sống ở Long Môn học hành, cày ruộng, chăn cừu, làm bạn
với những ngƣời nông dân bình thƣờng. Lên mƣời tuổi ông đã đọc Tả truyện, Quốc Ngữ, Thế
Bản và thuộc lòng hầu hết những bài văn nỗi tiếng của thời trƣớc, năm hai mƣơi tuổi, ông đi
du ngoạn nhiều nơi ở trong nƣớc, tậm mắt xem những nơi có địa điểm văn hóa, lịch sử.
Trƣớc tiên ông đi về phía nam đến trƣờng Giang, vƣợt sông Hoài, sông Tử thăm mộ mẹ Hàn
Tín. Ông lên núi Cối Kê xem nơi Hạ Vũ triệu tập chƣ hầu, vào hang Vũ Động tìm dấu tích
vua Vũ. Chính ở Cối Kê ông đƣợc nghe những chuyện về Việt Vƣơng Câu Tiễn, lên Cô Tô
tìm di tích Ngũ Tử Tƣ, đi thuyền trên Thái Hồ sƣu tầm về truyền thuyết Tây Thi - Phạm Lãi.
Ông tiếp tục ngƣợc lên Trƣờng Sa đến sông Mịch La tƣởng nhớ Khuất Nguyên, đến sông
Tƣơng leo núi Cữu Nghi tìm dấu vết mộ vua Thuấn và khảo sát
55
những phong tục thời Hoàng Đế. Ông lại đi lên phía Bắc vƣợt sông Vấn, sông Tứ đến nƣớc
Tề, nƣớc Lỗ thăm lăng miếu của Khổng Tử. Đến đất Tiết thăm và tìm hiểu Mạnh Thƣờng
Quân, đến Bành Thành, quê hƣơng của Lƣu Bang, ngƣời dựng nên nhà Hán. Trong những
chuyến du ngoạn này ông cũng không quên đến nƣớc Sở, nƣớc Ngụy rồi kết thúc chuyến
hành trình suốt ba năm để trở về kinh đô Trƣờng An.
Chính những chuyến đi làm cho Tƣ Mã Thiên thấy đƣợc sƣ bao la, hùng vĩ của đất
nƣớc, hình thành ý thức một cách sâu sắc về sự vĩ đại của dân tộc Trung Hoa. Và cũng nhờ
những chuyến đi đó ông đã thu thập đƣợc vô số câu chuyện, tài liệu lịch sử về các sự kiện và
nhân vật lịch sử cũng nhƣ thái độ của nhân dân đối với những nhân vật và sự kiện lịch sử đó.
Năm 110 TCN, Tƣ Mã Đàm qua đời. Trƣớc khi mất, Tƣ Mã Đàm cầm tay con mà dặn
rằng: Tổ tiên ta đời đời làm sử quan, sau khi ta chết đi, thế con cũng nối nghiệp ta làm Thái
sử. Khi làm thái sử con chớ quên những việc ta muốn bàn, muốn biết. Hiện nay, bốn biển một
nhà, vua sáng tôi hiền, ta làm thái sử mà không chép đƣơc, rất lấy làm xấu hổ, con hãy nhớ
lấy.
Sau ba năm mãn tang, ông thay cha làm thái sử lệnh. Ông đã vƣợt lên nỗi oan trái
trong vụ Lí lăng, bắt tay vào viết bộ Sử kí để vừa thực hiện lời trăng trối của cha và cũng là
thực hiện hoài bão của mình.
Trải qua nhiều năm và vƣợt qua những khó khăn về tƣ liệu, rốt cuộc Tƣ Mã Thiên
cũng đã hoàn thành bộ Sử ký. Với tác phẩm Sử ký, bộ thông sử đầu tiên của Trung Quốc, ông
đã ghi chép lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ đế. Toàn
bộ tác phẩm gồm 12 bản kỷ, 10 biểu, 8 thƣ, 30 thế gia, 70 liệt truyện.
- Bản kỷ: Là sự tích các vua.
- Biểu: Là bảng tổng kết về niên đại.
- Thƣ: Là lịch sử các chế độ, các ngành riêng biệt nhƣ lễ, nhạc, kinh tế...
- Thế gia: Là lịch sử các chƣ hầu và những ngƣời có danh vọng.
- Liệt truyện: Chuyện các nhân vật lịch sử khác.
Qua 5 phần đó, Tƣ Mã Thiên đã ghi lại mọi mặt trong xã hội nhƣ chính trị, kinh tế,
quân sự, văn hóa, ngoại giao... của Trung Quốc trong giai đoạn lịch sử đó.
56
Tƣ Mã Thiên đã có đóng góp to lớn vào nền sử học Trung Quốc. Có thể nói ngày nay
không một ai khi nghiên cứu về lịch sử cổ trung đại Trung Quốc mà không tham khảo tác
phẩm của ông.
BAN CỐ
Cha của Ban Cố là Lan đài Lệnh sử thời Tây Hán. Tiếp bƣớc cha, Ban Cố cũng giữ
chức Lan đài Lệnh sử thời Đông Hán, có nhiệm vụ bảo quản chỉnh lí sách vở, hồ sơ của nhà
nƣớc, khởi thảo các văn kiện, biên soạn sử sách.
Hán thƣ của Ban Cố viết về lịch sử triều Tây Hán ghi chép lịch sử từ Hán Cao Tổ
(206 TCN) cho đến cuối thời Vƣơng Mãng (năm 23 sau CN), tất cả có 230 năm. Hán thƣ bao
gồm 12 bản kỷ, 8 điệu, 10 chí, 70 liệt truyện. Cuốn sử là một cuốn Đoan đại sử đƣợc viết
theo thể kỉ truyện. Sau khi bộ Hán thƣ của ông ra đời, thể lệ biên soạn lịch sử lấy biểu, kỉ,
chí, truyện làm hình thức, lấy từng triều đại làm một bộ sử trở thành hình thức tiêu biểu của
việc viết sử cho đời sau. Ban Cố đã là ngƣời mở đầu và sáng tạo ra một thể loại viết sử mới là
không viết theo thời đại. Đây là một cuốn chuyên sử về chế độ chính trị, pháp luật, về học
thuật, về lịch sử địa lí, về các công trình thủy lợi...
Hán thƣ là một tác phẩm cổ vũ cho chế độ. Ban Cố sống trong một chế độ chuyên chế
phong kiến do đó không thể không bị chi phối bởi tƣ tƣởng thần học, kị húy.... Ông cổ động
cho tƣ tƣởng nhà Hán là ngƣời có sứ mệnh kế thừa nhà Nghiêu, tán dƣơng luân lí cƣơng
thƣờng nho giáo phong kiến, phê phán tƣ tƣởng chống đối của Tƣ Mã Thiên...
Mặc dầu vậy, tác phẩm Hán thƣ của Ban Cố cũng đã đƣợc ngƣời đời sau xếp vào một
trong 24 bộ chính sử của Trung Quốc ( Nhị Thập tứ sử).
PHẠM VIỆP (398 - 445) sống vào thời Lƣu Tống Nam Triều, có tác phẩm Hậu Hán
Thƣ. Đây cũng là một bộ sử có giá trị, đƣợc đánh giá cao thời bấy giờ.
Bốn tác phẩm Sử ký, Hán thƣ, Tam quốc chí, Hậu Hán thƣ đều do tƣ nhân soạn và
đƣợc gọi chung là "tiền tứ sử" (4 bộ sử có trƣớc). Bắt đầu từ thời nhà Đƣờng, cơ quan biên
soạn lịch sử của nhà nƣớc đƣợc đƣợc thành lập. Cơ quan này đƣợc gọi là "Sử quán". Việc
thành lập một tổ chức chuyên lo biên soạn lịch sử thể hiện nhà nƣớc chú trọng và chăm lo
công việc biên soạn lịch sử.
57
Từ đời Đƣờng trở về sau các bộ sử Trung Quốc đều do nhà nƣớc biên soạn. Sử quán
của đời Đƣờng soạn đƣợc tất cả 8 bộ sử ghi chép từ nhà Tấn đến nhà Tùy. Sang thời nhà
Minh, Trung Quốc đã biên soạn đƣợc 24 bộ sử, về sau thêm Tân Nguyên sử và Thanh sử cảo
thành 26 bộ sử.
Ngoài những bộ sử do nhà nƣớc biên soạn nói trên còn có rất nhiều tác phẩm sử học
viết theo các thể loại khác nhƣ: Sử thông của Lƣu Tri Kỷ là tác phẩm viết về phƣơng pháp
biên soạn lịch sử sớm nhất của Trung Quốc, trong đó tác giả bình luận tất cả các tác phẩm sử
học đời trƣớc về phƣơng pháp biên soạn, việc sử dụng tài liệu, cách hành văn...
Cuốn Thông điển của Đỗ Hữu đời Đƣờng: Thông điển là quyển sử đầu tiên viết về
từng lĩnh vực nhƣ kinh tế, chế độ thi cử, quan lại... từ thời thƣợng cổ cho đến thế kỷ thứ VIII.
Đến thời Tống có bộ sử Tự trị thông giám của Tƣ Mã Quang, là bộ sử biên niên rất
lớn ghi chép lịch sử từ thời Chiến quốc đến thời Ngũ đại.
Đặc biệt có các bộ sử đồ sộ đƣợc hoàn thành dƣới thời Minh Thanh là Vĩnh lạc đại
điển, Cổ kim đồ thƣ tập thành, Tứ khố toàn thƣ... là những thành công lớn nhất trong công
tác biên soạn lịch sử thời phong kiến ở Trung Quốc.
Một trong những yếu tố có vai trò to lớn vào việc tạo nên những thành tựu sử học của
Trung Quốc là có vai trò của các Sử quán.
Sự ra đời và phát triển của các sử quán ở Trung Quốc là một quá trình lâu dài.
Phải trải qua đến trên ba trăm năm với nhiều hình thức tồn tại khác nhau, đến thời Bắc
Tề (550 - 577), cơ quan chuyên trách biên soạn lịch sử mới chính thức đƣợc thành lập. Bộ
sách Ngụy thƣ còn ghi chép lại: Ngụy Thu một sử thần đang giữ chức Trung thƣ lệnh kiêm
Trứ tác lang đã đƣợc giao nhiệm vụ cùng các sử thần khác biên soạn bộ sách Ngụy Thƣ.
Những ngƣời tham gia biên soạn làm việc trong "Sử các", nơi dành riêng cho các sử quan
làm việc. Đây chính là hình thức đầu tiên của Sử quán.
Đến thời Đƣờng, việc xác lập chế độ sử quán mới chính thức đƣợc tiến hành. Sự
thống nhất đất nƣớc thời nhà Đƣờng đã tạo cơ sở cho một nhận thức thống nhất của các nhà
chính trị và sử học là cần có một bộ sử của triều đại nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
củng cố triều đại. Hàng loạt các sử quan có đức có tài đƣợc đƣợc tuyển lựa vào sứ quán để
tiến hành biến soạn lịch sử. Từ đây bắt đầu hình thành quy chế các quan
58
trọng thần đƣợc giữ chức giám tu quốc sử. Quy định các địa phƣơng trong cả nƣớc định kì
giao nộp tƣ liệu lịch sử cho Quốc sử quán, đảm bảo lƣu giữ kịp thời các tƣ liệu lịch sử phục
vụ cho việc biên soạn thực lục và quốc sử. Quy định này đã đƣợc các triều đại sau nhà Đƣờng
tiếp tục thực hiện.
Sử quán tiếp tục đƣợc duy trì và phát triển qua các triều đại nối tiếp là Tống, Nguyên,
Minh, Thanh với việc hoàn thành các bộ Tống sử, Nguyên sử, Minh sử.
Sử quán là cơ quan biên soạn quốc sử của nhà nƣớc phong kiến Trung Quốc có tên
gọi chính thức dƣới thời Bắc Tề và chấm dứt dƣới thời nhà Thanh đã có những đóng góp
quan trọng vào sự phát triển của sử học. Từ một tổ chức lúc đầu còn nhỏ bé, sau phát triển lên
thành một cơ quan hoạt động với những cơ chế chặt chẽ, với một đội ngũ biên soạn quốc sử
hùng hậu, Sử quán đã góp phần sáng tạo thêm nhiều thể loại và phƣơng pháp biên soạn lịch
sử, để lại nhiều bộ sử đồ sộ, góp phần vào sự phát triển của sử học Trung Quốc nói riêng và
sử học thế giới nói chung.
Tuy nhiên bên cạnh những ƣu điểm nói trên, Sử quán của Trung Quốc cũng còn nhiều
hạn chế nhƣ việc thành lập tổ chức này là nhằm mục đích tăng cƣờng ảnh hƣởng của triều
đình đối với sử học. Việc lựa chọn các viên giám tu, tổng tài làm việc trong sử quán là do
triều đình lựa chọn. Việc đánh giá khen chê các nhân vật và triều đại lịch sử cũng không thể
vƣợt qua những quan điểm có tính khuôn mẫu của chế độ phong kiến.
59
CHƢƠNG III: SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CẬN ĐẠi
I. Hoàn cảnh lịch sử
Ngay từ thời hậu kì trung đại những yếu tố tƣ bản chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng
xã hội phong kiến và đến giữa thế kỉ XVI, lực lƣợng sản xuất tƣ bản chủ nghĩa phát triển
mạnh trong lòng xã hội Tây Âu.
Những cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp tƣ sản đã bùng nổ trƣớc đó nhƣ các phong
trào văn hóa phục hƣng, cải cách tôn giáo, chiến tranh nông dân... đã mở đƣờng cho những tƣ
tƣởng tiến bộ.
Những trào lƣu tƣ tƣởng tiến bộ ra đời, đến lƣợt nó đã soi sáng cho các cuộc cách
mạng tƣ sản. Các nhà khai sáng ở Pháp và ở các nƣớc đã giƣơng cao ngọn cờ tƣ tƣởng tƣ sản,
đặt nền móng về lí luận cho sự bùng nổ của các cuộc cách mạng.
Mở đầu là cuộc cách mạng tƣ sản Hà Lan và sau đó là các cuộc cách mạng tƣ sản
Anh, Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ, Cách mạng tƣ sản Pháp... Các cuộc cách mạng tƣ
sản đã tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến, xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lỗi
thời, xác lập chủ nghĩa tƣ bản trên phạm vi toàn thế giới.
Sau khi giành thắng lợi, giai cấp tƣ sản đã tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, cải
tiến công cụ sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nhân tố đảm bảo quyết định sự thắng
tuyệt đối của chủ nghĩa tƣ bản với chế độ phong kiến. Cuộc cách mạng công nghiệp mở đầu
ở nƣớc Anh sau đó lan ra toàn châu Âu, châu Mĩ đƣa nhân loại bƣớc sang một nền văn minh
mới, nền văn minh công nghiệp.
Ngoài sự biến đổi to lớn về sản xuất, trong lĩnh vực xã hội cũng đã có nhiều biến đổi.
Giai cấp công nhân công nghiệp ra đời và không ngừng phát triển về số lƣợng và chất lƣợng.
Sự trƣởng thành của giai cấp công nhân là lực lƣợng vật chất quan trọng để Mác và Ăng ghen
sáng tạo ra Chủ nghĩa xã hội khoa học - cơ sở phƣơng pháp luận của sử học Mácxít.
Trào lƣu tƣ tƣởng vô sản do Các Mác và Ăng ghen sáng lập vào những năm 40, 50
của thế kỉ XIX là vũ khí lí luận để giai cấp vô sản đấu tranh chống lại chủ nghĩa tƣ bản, tiến
tới thiết lập một xã hội mới không có ngƣời bóc lột ngƣời.
60
Trong bối cảnh đó của lịch sử nhân loại, những trào lƣu sử học đã ra đời và phát triển
tạo nên sự phong phú và đa dạng của các tƣ tƣởng, trƣờng phái cũng nhƣ hình thức phát triển
của sử học thời cận đại.
II. Các trào lƣu sử học thời cận đại
Những trào lƣu tƣ tƣởng thế kỷ XVII - XVIII nảy sinh trong thời cận đại có ảnh
hƣởng đến việc phát triển sử học và làm cho nghiên cứu lịch sử thành một khoa học. Thời cận
đại với những nội dung cơ bản của nó là cách mạng tƣ sản thành công, giai cấp tƣ sản lên
nắm quyền thống trị; mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt giữa tƣ sản và vô sản - với tƣ cách là
những giai cấp độc lập, cơ bản của xã hội; cuộc xâm chiếm, đô hộ thuộc địa và cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân, đã hình thành các khuynh hƣớng sử học khác nhau.
1. Sử học tư sản
Từ một giai cấp ra đời trong lòng xã hội phong kiến, giai cấp tƣ sản trở thành giai cấp
đại diện cho sƣ tiến bộ của lịch sử trong buổi đầu thời cận đại. Giai cấp tƣ sản đã tập hợp
quần chúng nhân dân tiến hành các cuộc cách mạng tƣ sản, lật đổ chế độ phong kiến, xác lập
chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Từ một giai cấp bị đè nén, giai cấp tƣ sản dần dần trở thành giai cấp
thống trị. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tƣ bản, từ giai cấp tiến bộ, đang lên, giai
cấp tƣ sản dần dần trở thành phản động, cản trở sự phát triển của lịch sử. Sử học của giai cấp
tƣ sản cũng đã bị thay đổi tính chất nhƣ vậy theo tiến trình đó.
1.1. Sử học thời khai sáng
Châu Âu đã trải qua một thời kì dài trong chế độ phong kiến. Sự kết hợp giữa vƣơng
quyền và thần quyền đã trói buộc con ngƣời trong vòng tăm tối. Vì thế mà ngƣời ta đã gọi
thời kì này là "đêm trƣờng trung cổ". Từ hậu kì trung đại, các thế kỷ XVII, đặc biệt là thế kỷ
XVIII cuộc đấu tranh chống thế giới quan phong kiến, tôn giáo diễn ra quyết liệt. Trong cuộc
đấu tranh này, sử học tƣ sản, tuy mới hình thành, đã thể hiện thái độ khoa học đối với lịch sử.
Trong buổi đầu của thời cận đại, sử học Khai sáng có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống thế giới quan phong kiến, tôn giáo - cơ sở tƣ tƣởng của sử học phong kiến.
61