1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Văn hóa - Lịch sử >

CHƯƠNG III: SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CẬN ĐẠi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 113 trang )


Trong bối cảnh đó của lịch sử nhân loại, những trào lƣu sử học đã ra đời và phát triển

tạo nên sự phong phú và đa dạng của các tƣ tƣởng, trƣờng phái cũng nhƣ hình thức phát triển

của sử học thời cận đại.



II. Các trào lƣu sử học thời cận đại

Những trào lƣu tƣ tƣởng thế kỷ XVII - XVIII nảy sinh trong thời cận đại có ảnh

hƣởng đến việc phát triển sử học và làm cho nghiên cứu lịch sử thành một khoa học. Thời cận

đại với những nội dung cơ bản của nó là cách mạng tƣ sản thành công, giai cấp tƣ sản lên

nắm quyền thống trị; mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt giữa tƣ sản và vô sản - với tƣ cách là

những giai cấp độc lập, cơ bản của xã hội; cuộc xâm chiếm, đô hộ thuộc địa và cuộc đấu

tranh chống chủ nghĩa thực dân, đã hình thành các khuynh hƣớng sử học khác nhau.

1. Sử học tư sản

Từ một giai cấp ra đời trong lòng xã hội phong kiến, giai cấp tƣ sản trở thành giai cấp

đại diện cho sƣ tiến bộ của lịch sử trong buổi đầu thời cận đại. Giai cấp tƣ sản đã tập hợp

quần chúng nhân dân tiến hành các cuộc cách mạng tƣ sản, lật đổ chế độ phong kiến, xác lập

chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Từ một giai cấp bị đè nén, giai cấp tƣ sản dần dần trở thành giai cấp

thống trị. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tƣ bản, từ giai cấp tiến bộ, đang lên, giai

cấp tƣ sản dần dần trở thành phản động, cản trở sự phát triển của lịch sử. Sử học của giai cấp

tƣ sản cũng đã bị thay đổi tính chất nhƣ vậy theo tiến trình đó.

1.1. Sử học thời khai sáng

Châu Âu đã trải qua một thời kì dài trong chế độ phong kiến. Sự kết hợp giữa vƣơng

quyền và thần quyền đã trói buộc con ngƣời trong vòng tăm tối. Vì thế mà ngƣời ta đã gọi

thời kì này là "đêm trƣờng trung cổ". Từ hậu kì trung đại, các thế kỷ XVII, đặc biệt là thế kỷ

XVIII cuộc đấu tranh chống thế giới quan phong kiến, tôn giáo diễn ra quyết liệt. Trong cuộc

đấu tranh này, sử học tƣ sản, tuy mới hình thành, đã thể hiện thái độ khoa học đối với lịch sử.

Trong buổi đầu của thời cận đại, sử học Khai sáng có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu

tranh chống thế giới quan phong kiến, tôn giáo - cơ sở tƣ tƣởng của sử học phong kiến.



61



Do có những bối cảnh lịch sử - xã hội khác nhau, nên sử học khai sáng có sự khác

nhau ở mỗi nƣớc, tuy nhiên nó đều có những nét chung nhất định. Sử học khai sáng là một bộ

phận của trào lƣu tƣ tƣởng của thời đại khi mà chủ nghĩa tƣ bản đang lên. Trong thời kì này

cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến chuyên chế diễn ra trên mọi lĩnh vực và trở thành

trung tâm của đời sống xã hội, mở đƣờng cho sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản.

Trong thời gian đầu những mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ kinh tế -xã hội của chủ

nghĩa tƣ bản chƣa phát triển gay gắt, cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến là cuộc đấu

tranh để chống lại thế giới quan phong kiến, thần học. Đây là cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tƣ

tƣởng nhằm dọn đƣờng cho cuộc đấu tranh xã hội để xác lập quyền thống trị của giai cấp tƣ

sản. Do sự khác nhau về điều kiện kinh tế - xã hội nhƣ đã nói ở trên ở mỗi nƣớc mà là sóng

đấu tranh tƣ tƣởng, văn hóa nói chung, sử học nói riêng của thời kỳ khai sáng cũng những nét

khác nhau.

Ở Anh, Hà Lan... vào thế kỷ XVII các nhà sử học nhƣ nhƣ Grôsi, Hôppơ cũng nêu lên

những vấn đề lý thuyết về sự phát triển xã hội. Điều đáng tiếc là họ lại đồng nhất quy luật tự

nhiên với quy luật xã hội, xem lịch sử loài ngƣời là một quá trình bị chi phối chặt chẽ của các

quy luật tự nhiên.

Ở Pháp, đại diện điển hình cho nền văn hóa, tƣ tƣởng Khai sáng châu Âu, các nhà sử

học đã nêu vấn đề về quy luật trong lịch sử, mà từ trƣớc đến nay chƣa ai nêu đƣợc rõ ràng.

Khác với các nhà sử học Anh và Hà Lan, các nhà sử học khai sáng Pháp lại tìm quy luật lịch

sử trong bản chất con ngƣời, trong mối quan hệ con ngƣời với tự nhiên, nhƣng họ vẫn chƣa

thoát khỏi quan điểm siêu hình, máy móc khi cho rằng quy luật lịch sử cũng là quy luật tự

nhiên. Họ đề cao việc nhận thức quy luật lịch sử. Với họ, những nhận thức về quy luật lịch sử

có một ý nghĩa quan trọng để biến lịch sử thành một khoa học. Tiếp nối truyền thống của

Pôlibi, các nhà sử học khai sáng Pháp đề cao việc biên soạn lịch sử thế giới. Quan điểm này

xuất phát từ việc thừa nhận sự thống nhất của xã hội loài ngƣời sự cần thiết phải nghiên cứu

lịch sử một cách toàn diện trên tất các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục...

IMMANUEL KANT (1724 -1804)

Immanuel Kant sinh ngày 22-4-1804 tại thành phố Kôiennisberg (Đức), trong một gia

đình tiểu thị dân. Tốt nghiệp trung học năm 16 tuổi,



62



sau đó tốt nghiệp khoa thần học Kôiennisbec. Năm 1775, ông nhận bằng tiến sĩ và bắt đầu trở

thành giảng viên tại trƣờng.

Các tác phẩm của ông gồm có: "Phê phán lí trí thuần túy" (1781), "Cơ sở về siêu hình

của các dân tộc" (1785), "Phê phán lí trí thực tế" (1788), "Nguồn gốc của nhân loại" (1786),

"Một kế hoạch về hòa bình vĩnh viễn" (1795)...

Tƣ tƣởng của Kant có sự kết hợp một thứ mục đích luận từ truyền thống Thiên chúa

giáo và một tƣ duy đạo đức học riêng của Thời đại Ánh sáng. Ông có một số tác phẩm:

"Những suy đoán về những bƣớc khởi đầu của lịch sử nhân loại", " Ý tƣởng về một cuốn lịch

sử thế giới theo quan điểm vũ trụ chính trị" (1784)... Trong các tác phẩm của mình, ông đã

đƣa ra quan niệm lịch sử tự nhiên bắt đầu bằng cái thiện, vì đó là công trình của Thƣợng đế;

còn lịch sử của nền tự do lại bắt đầu từ cái ác, vì đó là tác phẩm của con ngƣời.

Ông biện luận nhiều mối quan hệ giữa cá nhân con ngƣời với xã hội trong quá trình

thực hiện "đồ án tự nhiên" để tiến tới một "trạng thái văn hóa", tạo ra một "thiết chế xã hội

hoàn hảo", "một cộng đồng công dân toàn thế giới" trên đƣờng tiến tới "Thế kỉ Ánh sáng".

Ông muốn tìm đến một "lịch sử chân thực" đƣợc hiểu theo kinh nghiệm, với ông "triết học

lịch sử đƣợc hiểu nhƣ một bộ phận của đạo đức học”(1).

Nhƣ vậy Kant đã gắn sử học với những yếu tố đạo đức, cố gắng tìm ra những nhân tố

chi phối các mối quan hệ của con ngƣời và lịch sử.

VOLTAIRTE (1694 -1778)

Voltaire tên thật là Frăngxoa Mari Aruê sinh ngày 21-11-1694 ở Paris trong một gia

đình trung lƣu. Năm 1701 vào học ở trƣờng trung học quy tộc Lui Đại đế, và sau đó trở thành

nhân viên tòa án. Đã từng hai lần bị trục xuất khỏi Paris và hai lần bị giam vào ngục Basti

nhƣng ông cũng đã từng đi nhiều nƣớc nhƣ Hà Lan, Anh, Thụy sĩ, Đức..., tiếp xúc với nhiều

nhà văn hóa tƣ tƣởng lớn.

Là một nhà triết học, nhà thơ, nhà viết kịch, nhà tƣ tƣởng, nhà sử học lớn trong thời

Khai sáng, ông đã có những đóng góp không nhỏ vào phát triển những tƣ tƣởng sử học.

Những tác phẩm tiêu biểu của ông gồm có



(1)



Các trƣờng phái sử học, Sđd, tr. 129-130.



63



"Chuyện Sáclơ XII" (1731), "Thời đại Lui XIV", "Tiểu luận về phong tục và tƣ tƣởng của các

dân tộc", "Những nhận xét mới về sử học", "Lịch sử đế chế Nga dƣới thời đại Pie Đại đế",

"Những bức thƣ về triết học" (1734) ...

Ông chú trọng tìm hiểu nguyên nhân "sử học phải nghiên cứu những lí do và những

ham muôn dẫn đến các hành vi của loài ngƣời".

Có ý thức về một thể loại "lịch sử toàn diện", ông kêu gọi hãy bỏ qua những câu

chuyện vô tận về những trận đánh và những ngày lễ, bỏ qua những chuyện ngồi lê đôi mách

về triều chính tràn ngập ở những tác phẩm, phải dành chỗ cho các sự kiện chứa đựng những

bài học phong phú, phải chú tâm để viết ra lịch sử nhân loại chứ không phải lịch sử các ông

vua và các triều đình.

Ông lƣu ý đến việc phải có sự hoài nghi trong nghiên cứu, chú ý đến yêu tố ngẫu

nhiên, lịch sử không phải lúc nào cũng đƣợc sắp đặt sẵn, yếu tố ngẫu nhiên đó nhiều khi

mang lại sự đảo ngƣợc.

Về phƣơng pháp nghiên cứu và biên soạn lịch sử, theo ông nhà sử học nên chú ý sao

cho công trình phù hợp, ngắn gọn, và không nhất thiết phải chất đầy những chi tiết vụn vặt

trong công trình của mình nhƣng phải có một văn phong sáng sũa, súc tích và một bố cục

chặt chẽ. Nghệ thuật kết hợp chuyện kể với những nhận thức có ích, tuân thủ một cách rộng

rãi lối biên niên quân sự và ngoại giao. Ông luôn chú trọng đến vấn đề dân số và kinh tế, ông

cũng là ngƣời bƣớc đầu sử dụng phƣơng pháp sử học định lƣợng.

Về tƣ cách của ngƣời viết sử : Ông đã từng nói "tôi lấy làm xấu hổ vì đã nói về những

trận chiến đấu, những sự kiện xấu xa của con ngƣời nhiều đến thế".

Voltaire cũng có những hạn chế nhất định nhƣ quá đề cao vai trò của các vĩ nhân. Bốn

thời kì mà ông phân chia trong lịch sử nhân loại đều gắn với các vĩ nhân: Thời kì Hilạp với

Philíp và Alexandre, thời La mã với Cesar và August, Florence với Medicis, nƣớc Pháp với

Lui XVI và nƣớc Nga với Pie Đại đế.

JEAN JACQUES ROUSSEAU (1712 -1778)

Jean Jacques Rousseau sinh ngày 28 tháng 6 năm 1712 trong một gia đình thợ sửa

đồng hồ ở Giơnevơ (Thụy sĩ). Năm 10 tuổi ông theo học mục sƣ ở Bôxây và đến năm 16 tuổi

trở về Paris sống tự do. Ông đã trải qua



64



nhiều nơi, làm nhiều nghề để kiếm sống nên thấy đƣợc cuộc sống cực khổ của nhân dân lao

động và căm ghét chế độ chuyên chế.

Những tác phẩm của ông gồm có: "Luận về khoa học nghệ thuật", "Luận về nguồn

gốc và cơ sở của bất bình đẳng" (1755), "Khế ƣớc xã hội" (1762), "Emin hay bàn về giáo

dục" (1762)...

Trong những tác phẩm của mình, ông vạch rỏ những mâu thuẫn giữa con ngƣời tự

nhiên và con ngƣời xã hội, giữa đạo đức tự nhiên và đạo đức phong kiến. Ông lên án xã hội

đƣơng thời đã nô dịch, chà đạp và làm tha hóa con ngƣời, và đấu tranh cho một nền giáo dục

dân chủ tự do. Ông cho nền văn minh đã phá hoại đạo đức của con ngƣời và chỉ ra nguyên

nhân của sự bất bình đẳng là do chế độ tƣ hữu.

MONTESQUIEU (1689 -1755)

Charles Louis Montesquieu sinh trƣởng trong một gia đình quý tộc nên ngay từ nhỏ

đã hấp thụ một nền giáo dục ƣu tú thời bấy giờ. Tốt nghiệp đại học luật, chƣa đến 30 tuổi ông

đã làm chủ tịch tòa án Bordeaux. Giữ chức vụ này trong vòng 10 năm nên Montesquieu rất

am hiểu hệ thống cai trị và thực chất của chế độ chuyên chế từ trung ƣơng đến địa phƣơng.

Sau ba năm chu du châu Âu, ông dành thời gian chủ yếu cho nghiên cứu khoa học. Ông là

một nhà triết học, kinh tế học, xã hội học, nhà văn, đặc biệt là một nhà sử học có nhiều đóng

góp cho nền sử học Pháp và thế giới.

Những tác phẩm tiêu biểu của ông gồm có: "Những lá thƣ Batƣ" (1721), Khảo sát về

sự lớn mạnh và suy tàn của La Mã" (1734), "Tinh thần luật pháp" (1748)...

Tƣ tƣởng sử học của ông là phê phán chế độ phong kiến và nhà nƣớc quân chủ

chuyên chế. Ông đã phân chia thể chế nhà nƣớc thành ba loại: độc tài, quân chủ lập hiến và

cộng hòa. Ông ca ngợi chế độ cộng hòa nhƣng cho rằng không thể thực hiện nó ở trong thực

tế, vì thế, theo ông, thể chế chính trị hợp lí nhất của Pháp và các nƣớc khác là thể chế quân

chủ lập hiến nhƣ ở Anh. Ông không chủ trƣơng lật đổ chế độ phong kiến bằng cách mạng mà

chỉ yêu cầu có những cải cách pho phù hợp với đòi hỏi và quyền lợi của giai cấp tƣ sản.

Ông đƣa ra nguyên tắc sự tồn tại của những quy luật chung, và cho quy luật chung có

vai trò quyết định quyết định mọi hiện tƣợng tƣ nhiên và xã hội. Cho dù cách diễn đạt đó còn

đơn giản, nhƣng ý tƣởng nghiên cứu, phát



65



hiện và trình bày các quy luật ấy là một tiến bộ, chống lại việc giải thích sự vận động của thế

giới là do ý định của Chúa của giáo hội.

Ông nêu lên quan điểm luật pháp và hình thức thống trị rất đa dạng và phong phú tùy

thuộc vào điều kiện tồn tại của các dân tộc và các quốc gia. Ông là một trong những ngƣời

sáng lập ra trào lƣu địa lí trong xã hội học và sử học lúc bấy giờ. Ông khẳng định vai trò của

hoàn cảnh địa lý là nhân tố quyết định đến sự phát triển của xã hội về cơ cấu và tập quán

thống trị xã hội. Môi trƣờng, theo quan điểm của Montesquieu, trùng hợp với chế độ chính

trị và lập pháp.

Những tƣ tƣởng chính trị và sử học trên đây của Montesquieu về quy luật, về hoàn

cảnh địa lí... rất tiến bộ và đã tác động không nhỏ tới quần chúng nhân dân Pháp. Ông trở

thành một trong những nhà khai sáng của thế kỷ Ánh sáng, chuẩn bị vũ khí tinh thần mở

đƣờng cho cuộc các cách mạng tƣ sản vĩ đại sau này.

Cùng với những nhà khai sáng vĩ đại, nhiều nhà sử học Pháp cũng đã bác bỏ quan

niệm bó hẹp việc nghiên cứu lịch sử chỉ trên lĩnh vực chính trị mà chủ trƣơng mở rộng

nghiên cứu ra các mặt khác của đời sống xã hội nhƣ kinh tế, văn hóa, giáo dục, tƣ tƣởng...

Ở Anh, các nhà sử học khai sáng, trên lập trƣờng chống phong kiến, chống giáo hội

đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề và lịch sử chế độ phong kiến trong thời trung đại, nhƣ vấn đề

ruộng đất của nông dân, việc bóc lột địa tô của phong kiến.

Ở Đức, nhà khai sáng nổi tiếng Hecđe, đã phát triển tƣ tƣởng về thống nhất và tính

quy luật của sự phát triển lịch sử. Ông nêu những mâu thuẫn trong quá trình phát triển lịch

sử, song lại cho rằng sự phát triển này sẽ đến đỉnh cao nhất- lòng nhân đạo. Quan điểm của

Hecđe vẫn còn tính chất duy tâm, song mang những yếu tố duy vật tự phát.

Ở Nga, vào thế kỷ XVIII tuy chế độ phong kiến - nông nô còn ngự trị, song các nhà

sử học cũng có những quan điểm tiến bộ nhƣ xem lịch sử là lịch sử chính trị của quốc gia.

M.V. Lômônôxốp muốn nghiên cứu lịch sử dân tộc trong phạm vi lịch sử thế giới, tìm hiểu

các giai đoạn thịnh suy thay nhau trong lịch sử. Lômônôxốp xem lịch sử là một phƣơng tiện

giáo dục cho nhân dân lòng yêu nƣớc và đạo đức. A.N. Rađixếp nghiên cứu lịch sử trên quan

điểm cách mạng, làm công cụ chống chế độ chuyên chế và chế độ nông nô.



66



1.2. Sử học tƣ sản trong thế kỷ XIX

Thắng lợi của các cuộc cách mạng tƣ sản đã xác lập quyền thống trị của giai cấp tƣ

sản, hệ thống các nƣớc tƣ bản dần dần đƣợc xác lập. Trong bối cảnh đó sử học càng có điều

kiện để phát triển. Các ngành khoa học mới hỗ trợ cho nghiên cứu sử học ra đời và tiếp tục

hoàn thiện nhƣ "Cổ tự học", "Văn kiện học", "Niên đại học"... Ngành cổ tự học đã có từ trƣớc

do nhu cầu của việc nghiên cứu các tài liệu gốc. Ngành văn kiện học làm nhiệm vụ giám

định, xác minh tính chính xác khoa học của các loại văn kiện lịch sử...

Đến khi chủ nghĩa tƣ bản đã chiến thắng chế độ phong kiến trên phạm vi rộng lớn của

thế giới vào giửa thế kỷ XIX,thì sử học tƣ sản cũng đạt đến đỉnh cao của nó và đƣợc xã hội

coi trọng và thừa nhận nhƣ là một ngành khoa học quan trọng. Do hạn chế về giai cấp, và bảo

vệ cho quyền lợi của giai cấp mình, sử học tƣ sản cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế của nó,

làm cho khoa học lịch sử thiếu tính khách quan, khoa học.

Sử học tƣ sản trong thế kỉ XIX có nhiều khuynh hƣớng, trƣờng phái khác nhau.

1.2.1. Sử học tư sản nửa đầu thế kỷ XIX

Sử học tƣ sản nữa đầu thế kỉ XIX phải kể đến các nhà sử học Đức, tiêu biểu là Hegel.

Hegel Georg Vilhelm Friedrich (1770 - 1831) là nhà triết học lớn ở Đức và thế giới

vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ông tốt nghiệp trƣờng dòng, nhận bằng thần học

nhƣng không đi làm mục sƣ. Năm 1801, ông làm giảng viên trƣờng đại học Iena, làm hiệu

trƣờng trƣờng trung học Nuremberg, và sau đó làm giáo sƣ triết học trƣờng đại học

Heideiberg.

Tác phẩm của ông gồm có: "Khoa học của lôgic", "Cơ sở triết học", "Từ điển bách

khoa các khoa học về triết học"... Năm 1818, ông đƣợc mời làm giáo sƣ trƣờng đại học Berlin

và tiếp tục cho xuất bản các tác phẩm "Nguyên lí triết học của luật pháp", "Bài giảng của triết

học về lịch sử"...

Triết học lịch sử của ông là triết học duy tâm vì ông cho rằng nguồn gốc của sự vận

động là do "ý niệm tuyệt đối", nhƣng ông lại có cái nhìn biện chứng về sự vận động của sự

vật, hiện tƣợng trong thế giới. Nhìn nhận về lịch sử, Hêghen chỉ ra mối liên hệ nội tại của sự

vận động không ngừng,



67



sự thay đổi, biến đổi của xã hội. Ông đã đƣa ra quan niệm về sự tiến bộ của lịch sử thế giới

một nguyên tắc biện chứng về sự phát triển. Sự phát triển của lịch sử đƣợc ông trình bày nhƣ

là cuộc đấu tranh của những mâu thuẫn. Điều đó đã làm phong phú thêm phƣơng pháp luận

về lịch sử.

Hegel có hạn chế khi trình bày nguyên tắc phát triển biện chứng, ông không giải thích

sự vận động xã hội về mặt vật chất, mà lại tìm đến cái gọi là "tinh thần tuyệt đối". Do tính

chất duy tâm trong triết học của mình, Hêghen đã giải thích mối liên hệ bên trong của các sự

kiện lịch sử là nguyện vọng không thay đổi của con ngƣời để đạt tới cái "tinh thần tuyệt đối"

này. Chính tính chất duy tâm trong nhận thức đó đã dẫn ông tới sự sai lầm về chính trị, khi

ông kêu gọi mọi ngƣời thừa nhận Hoàng đế Phổ, một hoàng đế nổi tiếng phản động lúc bấy

giờ. Ông cho Hoàng đế Phổ là một ngƣời tiêu biểu, là sự thể hiện của "tinh thần tuyệt đối".

Khi nói về sự phát triển của lịch sử, Hêghen cũng có những sai lầm lớn khi ông xem

lịch sử thế giới là quá trình nhận thức tự do, trong đó có những dân tộc có sử và có dân tộc

không có sử. Nhƣ vậy, ông đã loại ra khỏi quá trình lịch sử nhân loại nhiều dân tộc bé nhỏ,

kém phát triển. Điều cũng nhằm biện hộ cho quan điểm khẳng định lịch sử của dân tộc Đức

là lịch sử của toàn nhân loại, tán dƣơng nhà nƣớc quân phiệt Phổ.

Những quan điểm về lịch sử của Hêghen đã ảnh hƣởng lớn đến khuynh hƣớng sử học

tƣ sản phản động, đặc biệt sử học Đức. Một số sử gia theo phái "Hêghen trẻ" nhƣ Strauc,

B.Baoơ đã tiếp thu tinh thần biện chứng của Hêghen để nghiên cứu các vấn đề về lịch sử

Thiên Chúa giáo. Chỉ có C.Mác và Ph. Engels là ngƣời biết gạn lọc để thừa kế những thành

tựu tiến bộ và loại trừ những điểm hạn chế nói trên.

1.2.2. Sử học tư sản vào nửa sau thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

Do sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, văn hóa và sự cạnh tranh gay gắt giữa các

nƣớc nên đến nửa sau thế kỷ XIX, nhất là những thập niên cuối của thế kỉ XIX, ở châu Âu đã

xuất hiện những nhiều xu hƣớng tăng cƣờng mở cửa cho các học giả tiếp xúc với các tƣ liệu

nƣớc ngoài và thành lập các cơ quan lƣu trữ hồ sơ tài liệu liên quan đến các sự kiện chính trị,

quân sự và ngoại giao quan trọng, khuyến khích nghiên cứu sử học phục vụ cho lợi ích quốc

gia.



68



Các diễn đàn sử học nhƣ nhiều tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí sử học đã xuất bản

trở thành trung tâm nghiên cứu lịch sử. Các tác phẩm sử học cũng lần lƣợt ra đời. Đó là các

tạp chí nghiên cứu lịch sử nhƣ "Sử học bình luận" ở Pháp (1876), "Mỹ quốc sử học bình

luận" ở Mỹ (1895), "Anh quốc sử học bình luận" ở Anh (1896), "Nghiên cứu lịch sử" ở Đức

(1859)... Trong hai thập niên 80 và 90 của thế kỉ XIX, các tác phẩm chuyên sâu về sử học đã

đƣợc xuất bản ở Đức và Pháp là "Phƣơng pháp luận sử học" của Ernst Bernheim (1850 1922), "Dẫn luận nghiên cứu sử học" của C. Langloir(1863 - 11929) và C. Seignobos (1854 1942).

Các tổ chức nghiên cứu lịch sử nhƣ các nhiều hội sử học ra đời, hay việc thành lập ở

các trƣờng đại học các khoa lịch sử độc lập, các tổ bộ môn, tổ nghiên cứu lịch sử. Thành lập

các viện nghiên cứu lịch sử tại các viện hàn lâm khoa học. Việc tổ chức giảng dạy lịch sử có

nhiều tiến bộ. Các khoa và bộ môn lịch sử ở các trƣờng đại học có nhiệm vụ đào tạo không

chỉ sinh viên mà còn đào tạo các nhà sử học ở trình độ cao.

Đã có những cuộc trao đổi, tiếp xúc giữa các nhà sử học nhiều nƣớc. Năm 1900 Đại

hội quốc tế các sử gia lần thứ nhất đã triệu tập. Hội nghị là một dịp tốt để các nhà sử học tiếp

xúc, giao lƣu, trao đổi học tập kinh nghiệm trong nghiên cứu và phát triển nền sử học của

nƣớc mình.

Với sự xuất hiện các tổ chức sử học và các tạp chí nghiên cứu lịch sử, sử học dƣờng

nhƣ đƣợc chú trọng nhiều hơn, nhờ đó sử học tƣ sản đã thu đƣợc nhiều kết quả. sử học tƣ sản

đã có tiến bộ nhiều trong các lĩnh vực tích lũy sự kiện, nghiên cứu tài liệu, nâng trình độ khoa

học của các công trình nghiên cứu, tiếp tục phát triển thêm các ngành khoa học hỗ trợ cho

lịch sử nhƣ cổ tiền học, khảo cổ học, cổ văn hiến học(1), cổ tự học, nghiên cứu các con dấu,

tem bƣu điện...

Nhiều thành tựu nghiên cứu lịch sử đã ra đời. Các nhà khoa học - sử học CH. Maorơ,

L.G. Moócgan có nhiều cống hiến trong việc nghiên cứu các giai đoạn đầu của lịch sử phát

triển xã hội loài ngƣời. Trong tác phẩm của minh, lần đầu tiên Moócgan giải thích kỹ vấn đề

thị tộc - hình thức tổ chức cơ bản của xã hội nguyên thủy. Còn Maorơ thì chứng minh chế độ

tƣ hữu về ruộng đất không phải là khởi nguyên sự phát triển lịch sử của các bộ



(1)



Cổ văn hiến học (Archegraphic, gốc từ Hy Lạp archaios nghĩa là cổ xƣa) nghiên cứu các biện pháp ban bố tài

liệu lịch sử, xuất bản các tài liệu thành văn cổ.



69



lạc Giécmanh, mà trƣớc đó trong xã hội Giécmanh đã có hình thức công xã về chiếm hữu

ruộng đất.

Nghiên cứu lịch sử trong giai đoạn này không chỉ giới hạn trong lịch sử chính trị mà

còn đƣợc mở rộng từ lĩnh vực chính trị đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa tinh thần. Từ nửa

sau thế kỷ XIX đã xuất hiện nhiều khuynh hƣớng sử học mới.

Trƣớc hết là sử học thực chứng - biểu hiện của ý thức hệ tƣ sản tự do trong sử học.

Những nhà thực chứng cho rằng chỉ có thể xác định là có thật khi các sự kiện, hiện tƣợng

nhìn thấy đƣợc, cảm thấy đƣợc, và đƣợc kiểm nghiệm bằng khoa học tự nhiên. Sử học thực

chứng về căn bản là biểu hiện sự yếu ớt, chủ nghĩa công thức của xã hội học theo lý thuyết

của Ôguýt Côngtơ (1789 - 1857), ngƣời đặt cơ sở đầu tiên cho xã hội học. Côngtơ xem xã hội

học có hai loại : Tĩnh học xã hội (nghiên cứu về trật tự) và động học xã hội (nghiên cứu về sự

phát triển). Ông cho rằng xã hội loài ngƣời phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, diễn ra

một cách liên tục, thay đổi từ từ, không bị quy định bỡi thời gian và không gian.

Từ quan điểm lí thuyết này, các nhà sử học thực chứng thừa nhận tƣ tƣởng về sự phát

triển; bác bỏ việc xem xét lịch sử nhƣ mô tả các nhân vật. Họ chú ý lịch sử kinh tế, đời sống

xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, họ lại không nhận thấy những mâu thuẫn bên trong của quá

trình phát triển, không thấy sự gián đoạn và bƣớc nhảy vọt. Do đó, họ không thấy đƣợc sự

thay đổi tính chất, vai trò của giai cấp tƣ sản từ cách mạng đến bảo thủ và phản động.

Một khuynh hƣớng sử học khác cũng xuất hiện trong thời gian này là thuyết "Châu

Âu là trung tâm". Các nhà sử học theo thuyết này cho rằng châu Âu là cái nôi của lịch sử xã

hội loài ngƣời, cho nên nghiên cứu lịch sử thế giới là nghiên cứu lịch sử châu Âu. Những

quốc gia, dân tộc ở ngoài châu Âu chỉ là những nƣớc phụ cận, không có tác động mấy đến sự

phát triển của lịch sử loài ngƣời. Thuyết "Châu Âu là trung tâm" nhằm biện hộ cho chủ nghĩa

thực dân mở rộng việc xâm lƣợc và đô hộ các nƣớc nhỏ, yếu ở phƣơng Đông. Nó dọn đƣờng

cho khẩu hiệu của chủ nghĩa thực dân là ngƣời đi "khai hóa" các dân tộc thuộc địa, có "sứ

mệnh" truyền bá văn minh phƣơng Tây đến các nƣớc lạc hậu.

Đây là một sự biện hộ cho công cuộc thực dân của các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Thực tế

trong lịch sử phát triển xã hội loài ngƣời, trƣớc và sau giai



70



đoạn tƣ bản chủ nghĩa, nhiều châu lục khác đã đóng vai trò "trung tâm" của thế giới. Châu

Âu chỉ là cái nôi và là trung tâm của chủ nghĩa tƣ bản mà thôi. Hiện nay khái niệm châu Âu

là trung tâm đã đƣợc thay thế bằng khái niệm "Phƣơng Tây là trung tâm" để đề cao các nƣớc

Tây Âu và Bắc Mỹ, nhằm hạ thấp vai trò các dân tộc mới giành độc lập.

Ngoài những khuynh hƣớng trên, trong sử học tƣ sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

cũng đã xuất hiện những khuynh hƣớng khác, nhƣ "khuynh hƣớng kinh tế" là một sự kiện

đáng chú ý trong lịch sử sử học tƣ sản.

Nền kinh tế phát triển nhanh chóng là một tác động lớn đến sự ra đời của khuynh

hƣớng kinh tế. Khuynh hƣớng này xuất hiện còn do ảnh hƣởng của cuộc đấu tranh cách

mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống chủ nghĩa đế quốc và ảnh hƣởng

của những tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác.

Ở Anh, "khuynh hƣớng kinh tế" trong sử học xuất hiện cuối những năm 60 của thế kỷ

XIX và đạt đỉnh cao vào những năm 80 - 90. Bên cạnh việc nghiên cứu lịch sử chính trị, pháp

lý, các sử gia trong khuynh hƣớng này chú ý nhiều hơn đến các vấn đề kinh tế - xã hội. Ở

Mỹ, "khuynh hƣớng kinh tế" xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, sử gia thuộc khuynh hƣớng này

muốn đi sâu tìm nguyên nhân kinh tế của cuộc đấu tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh

ở Bắc Mỹ, của cuộc nội chiến 1861 - 1865 và nhiều sự kiện quan trọng nhất của lịch sử Hoa

Kỳ.

Xu hƣớng hƣớng tới tìm tòi nghiên cứu "khách quan, khoa học" lịch sử cũng đã xuất

hiện. Nhận thức và quan điểm nghiên cứu này bắt nguồn từ tình cảm lạc quan nảy sinh từ sự

phát triển nhanh chóng của khoa học ở phƣơng Tây vào thế kỉ XIX. Họ tin tƣởng sử học cũng

giống nhƣ những khoa học xã hội khác đều thuộc vào khoa học, đều có thể tiếp cận với hiện

thực lịch sử khách quan..

Ở Đức, ngay từ đầu thế kỉ XIX, nhà sử học Barthold Georg Niebuhr (1776 - 1831) đã

chủ trƣơng "dùng thái độ khoa học" và "phƣơng pháp khoa học" để phê phán các tác phẩm sử

học cổ đại. Ông rất coi trọng phƣơng pháp khảo cứu sử liệu nguyên thủy.

Leopol von Ranke (1795 - 1886), đã chú trọng bỏ ra nhiều thời gian để đi đến nhiều

nơi nhƣ những kho lƣu trữ hồ sơ tài liệu của nhà nƣớc và tƣ nhân, đến nhiều nơi ở châu Âu

để sƣu tầm và khảo cứu tƣ liệu. Ông chú trọng sƣu tầm và nghiên cứu những tƣ liệu gốc, và

những ghi chép về các



71



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

×