Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 113 trang )
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở La Mã bị sụp đổ, châu Âu bƣớc vào chế độ phong kiến.
Trong kinh tế, xã hội và văn hóa của chế độ phong kiến, vị trí của lịch sử rất nhỏ bé. Sử học
nhƣ là một phƣơng tiện dùng để củng cố giáo lý nhà thờ và chính sách thống trị của giai cấp
phong kiến cầm quyền.
Sử học trở thành tâm vỏ bọc của thần học, nhà thờ Thiên Chúa giáo nắm lấy lịch sử
làm công cụ thống trị tinh thần của nhân dân.
Các công trình biên niên sử thời kỳ này luôn thể hiện quan điểm "lịch sử diễn ra dƣới
trần gian đều do kế hoạch và ý định của Chúa vạch ra".
Từ quan niệm nói trên, phƣơng pháp nghiên cứu, học tập lịch sử cũng tập trung ở thể
loại kể chuyện cổ tích nhằm gây hứng thú cho ngƣời đọc, ngƣời nghe.
Tuy vậy, không thể xem toàn bộ việc nghiên cứu lịch sử nói chung và việc xây dựng
lý luận lịch sử nói riêng ở thời trung đại là một bƣớc lùi trong việc phát triển của tƣ duy lịch
sử. Vì một số nhà sử học phƣơng Đông và phƣơng Tây trên cơ sở những tƣ tƣởng khoa học
và triết học duy vật thời cổ đại đã xác định một số nguyên tắc khoa học đối với việc nhận
thức lịch sử một cách khoa học để chống lại quan điểm thần học về lịch sử xã hội.
2. Sử học Thiên chúa giáo đầu thời Trung cổ
2.1. Saint Augustin (354 – 430)
Từ cuốn "Thành bang Đức Chúa Trời" của giám mục Hippone gồm 22 tập đƣợc biên
soạn những năm 413 và 426 để đáp lại lời trách cứ rằng đạo Thiên chúa đã gây ra sự sụp đổ
đế chế, trong đó có sự kiện lớn là thủ lĩnh tộc Visigoth Alaric chiếm thành Roma năm 410:
thi thể của những ngƣời tử vì đạo không bảo vệ đƣợc thánh đƣờng Urbs và những nguyên tắc
giáo hội Thiên chúa trong đó có nguyên tắc tha thứ đó là mềm yếu cuộc kháng chiến của nhà
nƣớc.
Để chống lại những điều công kích này, Augustin đã viết các tập sách "Thành bang
của Chúa Trời":
Tập 1 - X: Lập bảng điều tra về những cái đƣợc xem là điều thiện của tôn giáo cổ
truyền La Mã. Các thành phố theo đạo Thiên chúa nhƣ Alexandrie, Constatinople và
Carthage đều hoàn toàn thịnh vƣợng
Tập XI - XXII: Trình bày cuộc đấu tranh đang diễn ra giữa đức tin và vô thần, giữa
thành bang nhà nƣớc tà giáo và thành bang về chúa Trời: Hai
47
thành bang trên đến mức đối kháng: " yêu mình đến mức khinh Chúa" và " yêu Chúa đến
mức khinh mình".
Đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu là cốt lõi của lịch sử (say mê thống trị và một bên là
phục vụ đồng loại).
Ảnh hƣởng của tác giả Thành bang Đức Chúa Trời rất lớn. Ngƣời ta đã lƣu giữ 500
bản thảo chủ chốt của ông, những tác phẩm đã đặt nền móng lý luận cho Thiên chúa giáo
thời trung cổ.
Cuối thế kỷ VI, giáo hội Grégoire le Grand (590 - 604) - Trụ cột của tƣ duy trung cổ
không phổ biến cái gì khác, ngoài một thứ chủ nghĩa Augustin sơ đẳng và phổ thông hóa".
Ngƣời ta rút ra rằng: Chúa Trời chi phối lịch sử giống nhƣ giới tự nhiên vậy, Chúa
Trời có thể can thiệp bất cứ lúc nào vào quá trình lịch sử thông qua những phép lạ và những
điều kỳ diệu.
2.2. RÉGOIRE DE TOURS (538 - 594)
Sinh năm 538 tại Clemont trong một gia đình nghị viện nổi tiếng ở xứ Gôlơ La Mã.
Đƣợc ngƣời chú Nizier là giáo mục Lyon hƣớng dẫn bƣớc đầu học tập văn chƣơng và tôn
giáo. Ông đƣợc phong linh mục, từ năm 573, ở tuổi 35 ông trở thành giám mục ở Tours và từ
đó tham gia tích cực vào đời sống chính trị và tôn giáo của thời đại mình.
Ông đã để lại 10 cuốn sách lịch sử, trong đó có 7 cuốn chép về các phép lạ, 1 cuốn về
đời sống các linh mục, 1 cuốn bình luận sách thánh ca, 1 cuốn viết về các cơ quan giáo hội.
Ngoài ra còn có 10 cuốn sách lịch sử đƣợc gọi là Lịch sử ngƣời Francs, đƣợc bắt đầu
viết năm 575 hay năm 576. Trong đó cuốn 1 viết từ Ađam và Eva cho đến cái chết của thánh
Martin năm 397. Cuốn 2 trình bày nguồn gốc và các cuộc chinh phục của ngƣời Franc đến
khi Clôvis chết năm 511. Cuốn 3 viết từ năm 511 đến Theodebert chết. Cuốn 4 viết tiếp cho
đến khi Sigebert chết năm 575.
Nhƣ vậy, đối với Grégoire de Tours, việc viết truyện thánh và lịch sử là không tách
rời nhau, đây một xu hƣớng phổ biến của sử học thời trung đại.
2.3. PAUL DIACRE (720 - 799)
48
Paul Diacre nhà sử học dân tộc ngƣời Lambards. Tên thật của ông là Paul Warnejried
(ông tự gọi mình là Diacre) xuất thân từ gia đình quí tộc ngƣời Lombards. Ông sống nhiều
năm trong triều đình và hoàn thành nền giáo dục của mình ở triều đình Parie. Ông làm gia sƣ
cho con vua Didier và sau đó thì vào tu niệm dòng thánh Benoit ở Mont - Cassin. Ông đã
từng đi truyền thụ kiến thức trong 4 năm (782 - 786) cho triều đình Charlemagne và cho
trƣờng cung đình Aix La Chapelle. Sau khi trở ông đã dùng những năm tháng cuối đời để
biên soạn về cuộc đời thánh Grégoire Le Grand và cuốn Lịch sử ngƣời Lombards bắt từ năm
500 đến năm 744 khi vua Liutpran qua đời.
Trong tác phẩm của ông đã điểm qua chân dung các vị anh hùng, chúa nhà vua
chuyên chính và ngƣời lập pháp. Ông đã đƣa vào những khác biệt về tâm lý hay tƣ pháp xã
hội để minh họa cho những sự kiện then chót trong tác phẩm.
2.4. RLODOARD DE REIMS (893/94 - 966)
Ông sinh ra ở Epernay năm 893 (hoặc 894), đƣợc đào tạo ở trƣờng dòng Reims, sau
đó vào phục vụ tổng giám mục Hervé. Sau đó trở thành cha xứ Cormicy, sau đó bị phạt khỏi
chức cha xứ. Ông có các tác phẩm nhƣ "Những chiến thắng của chúa Kitô và của các vị thánh
của Ngƣời ở Palextin, ở Antioche và ở nƣớc Italia"; "Lịch sử giáo hội Reims" ... Lịch sử giáo
hội ở Reims có hai phần: Lịch sử cổ đại và cận đại đến năm 883 và phần hiện đại từ năm 883
đến năm 948.
Đây là một cuốn sách ghi chép tiếp nối về các đức Giáo hoàng theo một dàn ý điển
hình: nguồn gốc các vị giáo hoàng, tính thánh thiện, sự thành đạt, việc tích lũy tài sản, dinh
thự.
Bộ sử không có sáng tạo gì lớn, song với tƣ cách một ngƣời thợ có ý thức về sử học,
ông có đóng góp trong việc sử dụng các tài liệu lƣu trữ khá đa dạng, mặc dù các tác phẩm
của ông có khuynh hƣớng ghi chép theo kiểu thƣ lại và chuyển từ viết lịch sử sang viết truyện
thánh.
3. Sử học biên niên thế kỷ XI - XIV
Trong thời trung đại xuất hiện một xu hƣớng viết sử mà ngƣời ta thƣờng gọi là
"Trƣờng phái biên niên".
49
Trƣờng phái biên niên xuât phát từ một quan niệm cho rằng thế giới tự nhiên - vũ trụ,
đã đƣợc sắp đặt sẵn và con ngƣời có những vai trò ở trong lòng vũ trụ, mà hành động của họ
đƣợc ghi nhận qua thời gian có nhiệm vụ tiếp tục và hoàn thành công trình sáng tạo của
Thƣợng đế. Vì vậy, ngƣời ta đã chú trọng rất nhiều đến hành động của con ngƣời qua thời
gian, chú trọng đến cuộc đời các vị thánh bằng các biên niên sử.
Khác với những câu chuyện lịch sử đƣợc hƣ cấu, những nhà biên niên khi trình bày
một câu chuyện hay một vấn đề lịch sử thƣờng chú trọng đến căn cứ thời gian. Các câu
chuyện đƣợc sắp xếp hẳn hoi trong đó nêu rõ "các nhân vật mà các sự kiện đến với họ, các
địa điểm nơi họ đến và các thời điểm mà họ đến"(1).
Các tác giả và tác phẩm sử học biên niên tiêu biểu gồm có: Lịch sử và văn hóa - lịch
sử ở phƣơng Tây trung cổ của B. Boernard Guenec, Biên niên về Guines và Ardres của linh
mục Lambert d Ardres, Đại biên niên nƣớc Pháp do các tu sĩ ở Saint Denis, Đại biên niên xứ
Bretagne của Alain Bouchrart và Olivier de Marche .v.v.
Hạn chế của các nhà biên niên là ở chỗ họ còn chƣa nắm vững thời gian và những
niên biểu giản đơn, khái niệm phổ biến về không gian vẫn còn thô thiển, con số mà các nhà
biên niên đƣa ra vẫn còn có tính tƣợng trƣng, cắt rời và tóm tắt các sự kiện lại vừa sắp xếp
lộn xộn...
4. Sử học thời kỳ Phục Hưng
4.1. Hoàn cảnh lịch sử
Bƣớc ngoặt quan trọng trong sự phát triển sử học trên đƣờng khắc phục những quan
điểm phong kiến, tôn giáo về phƣơng pháp luận sử học là sự ra đời của sử học nhân văn thời
Phục hƣng.
Văn hóa Phục hƣng xuất hiện gắn liền với xuất hiện những quan hệ sản xuất tƣ bản
chủ nghĩa ở Tây Âu trong lòng chế độ phong kiến thời hậu kỳ trung đại (thế kỷ XVI - XVII).
Giai cấp tƣ sản đang lên đại diện cho lực lƣợng sản xuất tƣ bản chủ nghĩa nhìn thấy tinh hoa
của nền văn hóa Hy Lạp - La Mã có những điều phù hợp với mình, nên đã chủ trƣơng phục
hồi lại những tinh hoa văn hóa đang có nguy cơ biến mất vì bị tôn giáo và phong kiến vùi
dập. Thực chất của phong trào Văn hóa Phục hƣng là một phong
(1)
Các trƣờng phái sử học, Sđd, tr. 85.
50
trào hoàn toàn mới mà giai cấp tƣ sản muốn xây dựng cho phù hợp với thế lực kinh tế và lối
sống của mình.
Phong trào Văn hóa Phục hƣng nói chung và sử học Phục hƣng nói riêng có khuynh
hƣớng chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại sự ràng buộc của thần học, đề cao chủ nghĩa
nhân văn, đề cao tinh thần dân tộc...
Sự tiến bộ mạnh mẽ của sản xuất cùng với những thành tựu của khoa học, kỹ thuật,
văn hóa... đã tạo nên những cơ sở tƣơng đối vững chắc cho sự phát triển của sử học thời kì
này.
4.2. Những thành tựu của sử học Phục Hƣng
Vào thế kỷ XVI, nền sử học đã phát triển ở Pháp, Italia và các nƣớc khác. Các nhà sử
học đã đi vào các xu hƣớng khác nhau, bƣớc đầu tạo nên sự phong phú và đa dạng trong
nghiên cứu sử học.
Một trong những phát hiện và đóng góp lớn của các nhà sử học thế kỷ XVI là không
còn thỏa mãn với lối kể chuyện, họ đã tách lịch sử ra khỏi những cây chuyện ngụ ngôn để
nghiên cứu và phê phán các dấu vết của quá khứ nhằm xác lập các sự kiện chính xác chừng
nào tốt chừng đấy.
Trong xu hƣớng chung của nền Văn hóa Phục hƣng, muốn khôi phục lại những thành
tựu nền văn hóa Hi - La cổ đại, các nhà sử học nhân văn chủ nghĩa đã hăng hái đi vào nghiên
cứu các tác giả thời cổ đại, nhờ vậy một khối lƣợng lớn tƣ liệu đã đƣợc khai thác và chỉnh lý.
Nhờ những tiến bộ trong in ấn, công tác in ấn và phổ biến các tác phẩm sử học cũng
có tiến bộ hơn. Trong những điều kiện mới, sử học phục hƣng đã có những thành tựu to lớn.
Sử học Phục hƣng đã có những bƣớc phát triển lớn về phƣơng pháp nghiên cứu. Các
khoa học hỗ trợ cho khoa học lịch sử đƣợc chú trọng nghiên cứu. Đã xuất hiện những ngành
nghiên cứu mới, những chuyên ngành hẹp của sử học nhƣ bộ môn sử liệu học, cổ tự học (chủ
yếu nghiên cứu văn tự Latinh), ngành niên đại học...
Từ những thành tựu nghiên cứu đó đã góp phần vào cải cách lịch pháp. Lịch Grêgo ra
đời vào thế kỷ XVII tạo điều kiện cho khoa học lịch sử phát triển hơn nữa.
Sử học không còn đóng cửa với những tri thức đơn lẽ của mình mà đã hình thành xu
hƣớng của sự liên kết sử học với các khoa học khác nhƣ sự liên hệ giữa sử học và kinh tế
chính trị học, sử học với địa lý học...
51
Sự xuất hiện các bộ môn mới của sử học tức là xu hƣớng phân ngành trong nghiên
cứu lịch sử chứng tỏ khoa học lịch sử đã có những bƣớc phát triển. Các bộ môn nhƣ sử liệu
học, cổ tự học, niên đại học, lịch pháp học không chỉ trợ giúp một cách đắc lực cho việc
nghiên cứu lịch sử, mà bản thân các bộ môn đã xây dựng cho mình hệ thống tri thức và
những cơ sở phƣơng pháp luận nghiên cứu đặc trƣng.
Các nhà sử học tiêu biểu
Sử học phục hƣng đã có những thành công to lớn, xuất hiện nhiều nhà sử học nổi
tiếng nhƣ Francis Bacon (1561-1626), N.Machiavel (1469-1527), L.Bruni, F.Bôngđô,
Etierine Pasquier, luật sƣ ngƣời Pháp với cuốn "Các công trình nghiên cứu ở Pháp" (từ 1560
trở đi), Jean WoIf: Hợp tuyển nghệ thuật lịch sử, Jean Bodin (1530 - 1596): Phƣơng pháp để
dễ dàng hiểu biết lịch sử, Lancelot De Popeliniere (1540 - 1608): Tƣ duy về lịch sử đã hoàn
tất (1599), Francois Hotman (1524 - 1590): Franco - Gallia (1573).
FRANCIS BACON (1561 -1626)
Ông là nhà triết học nổi tiếng nƣớc Anh, ngƣời tiêu biểu cho triết học duy vật Anh và
trƣờng phái khoa học thực nghiệm.
Tuyên bố tin chúa và sống thuận hòa với chúa, nhƣng nhấn mạnh không nên lẫn lộn
đức tin với nhận thức. Trong nghiên cứu lịch sử, ông cho rằng phải cần thƣợng đế giúp đỡ để
nhận biết các nguyên nhân và hiểu rõ mối quan hệ giữa các nguyên nhân đó.
Ông khuyên mọi ngƣời trong nghiên cứu không nên dừng lại ở những nguyên nhân
rời rạc, thứ yếu vì sẽ dẫm chân tại chổ. Để tăng thêm tính khoa học của lịch sử, cần khảo sát
kỹ các sự kiện và tìm hiểu mối quan hệ nhân quả.
MACHIAVEL (1469 -1527)
Là chính khách kiêm sử gia ngƣời Italia, là một tác giả quan trọng của dòng sử gia
nhân văn.
Giống nhƣ Polibi thời cổ đại, ông xem sự kiện chính trị cũng giống nhƣ hiện tƣợng tự
nhiên. Hoạt động của con ngƣời luôn có những thăng trầm, nhƣng bằng những thủ đoạn
riêng, con ngƣời có khả năng củng cố và duy
52
trì quyền lực chính trị, nghĩa là con ngƣời có thể dự đoán và góp phần xây dựng tƣơng lai.
Trong nghiên cứu sử học, Machiavel cũng có những hạn chế nhƣ quá cƣờng điệu vai
trò cá nhân, coi thƣờng vai trò của quần chúng nhân dân, chỉ giới hạn nghiên cứu trong lĩnh
vực lịch sử - chính trị. Ông mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu, phân tích bề ngoài của sự kiện
mà chƣa chú trọng tìm hiểu bản chát của các sự kiện và hiện tƣợng lịch sử.
RENE DECAC(1596- 1650 )
Đêcác tốt nghiệp khoa Luật năm 20 tuổi, và đã từng chu du nhiều nơi trên thế giới.
Năm 1627, ông về sống ở Bretagne, miền tây nƣớc Pháp và sau đó đến định cƣ ở Hà Lan
năm 1629.
Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm có: Bàn về thế giới hay là bàn về ánh sáng
(trong đó có một phần bàn về con ngƣời) (1633), Bàn về phƣơng pháp (1637), Nguyên tắc
về triết lí (1644), Luận về say mê về linh hồn (1650)...
Phạm vi nghiên cứu của Đêcác rất rộng, về lĩnh vực sử học ông coi sử học nhƣ là một
bộ môn nghiêng về nghệ thuật mà không thực sự là một khoa học vì sử học yếu về tính phê
phán, chỉ mộ tả sự kiện mà không tìm ra quy luật... Ông đƣa ra khái niệm tiến bộ cho sự phát
triển của thế giới. Sự vật và thế giới tiến bộ không ngừng và quá trình đó có tù đầu cho đến
khi sự vật đạt tới sự hoàn hảo. Tính biện chứng về sự phát triển đi lên này là cơ sở cho
những nhận thức tiếp theo về lịch sử.
Đêcác là ngƣời luôn đề cao phƣơng pháp. Ông nói thiếu phƣơng pháp thì ngƣời tài
cũng không thu đƣợc kết quả, có phƣơng pháp thì ngƣời bình thƣờng cũng có thể làm những
việc phi thƣờng. Ông luôn chú ý để tìm ra phƣơng pháp tƣ duy để khám phá ra chân lí. Ông
cố gắng đặt nền tảng lí thuyết của mình vào những gì mà ông đã chứng minh đó là chân thật.
Ông tìm kiếm để khám phá sự thật bằng cách hoài nghi tất cả, và nhận ra sự hoài nghi đó đã
giúp ông suy nghĩ đúng. Ông thấy tƣ duy là tất cả giá trị của con ngƣời (Tôi tƣ duy vì vậy tôi
tồn tại). Ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, đó là sự thật, vì thế ông tiếp tục bổ
sung những sự thật hiển nhiên khác.
Những quan điểm của Đêcác đã có ảnh hƣởng tích cực đến sử học trong việc cố gắng
để đạt đến sự chính xác và tính phê phán trong nghiên cứu lịch
53
sử.
Dƣới ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Phong trào văn hóa Phục hƣng, sử học thời Phục hƣng
với những tên tuổi lớn đã đạt đƣợc những thành tựu lớn trong cuộc đấu tranh tƣ tƣởng với
Giáo hội và phong kiến, về nội dung đề cập, về việc phê phán các nguồn tƣ liệu, về phƣơng
pháp luận sử học và làm xuất hiện những chuyên ngành mới của sử học...
III. Sử học Phƣơng Đông thời phong kiến
1. Hoàn cảnh lịch sử
Các nƣớc phƣơng Đông bƣớc vào chế độ phong kiến sớm hơn nhƣng lại kết thúc chế
độ phong kiến muộn hơn các nƣớc phƣơng Tây. Sự phát triển của chế độ phong kiến phƣơng
Đông trên cơ sở sự tiếp tục những cơ sở xã hội của thời kì cổ đại. Những nền văn minh hình
thành trên những lƣu vực các con sông lớn đã tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội phong kiến
phƣơng Đông phát triển. Nhƣng cũng chính trên những điều kiện tự nhiên đó, do nhu cầu của
công cuộc trị thủy đã hình thành nên những nhà nƣớc trung ƣơng tập quyền với quyền lực vô
hạn. Cùng với những tƣ tƣởng, tôn giáo ra đời trƣớc đó mang nặng tính chất duy tâm, sùng
tín, khắt khe... đã góp phần kìm hãm sự phát triển nhanh chóng xã hội phƣơng Đông. Quần
chúng nhân dân thì không thoát khỏi sự kìm kẹp, khống chế của tƣ tƣởng tôn giáo, phong
kiến. Giai cấp phong kiến thống trị thì cố duy trì những tƣ tƣởng bảo thủ, trì trệ có lợi cho
việc thống trị xã hội của mình. Những yếu tố trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến sự hình thành
và phát triển của nền sử học phong kiến phƣơng Đông. Tuy vậy nền sử học phong kiến
Phƣơng Đông cũng đã thu đƣợc những thành tựu to lớn.
2. Sử học phong kiến phươngĐông
2.1. Sử học Trung Quốc
Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng đế Trung Quốc đã có những sử quan tên là Đại
Náo, Thƣơng Hiệt. Đến đời Thƣơng trong các tài liệu bằng chữ giáp cốt có chứa đựng một số
tƣ liệu lịch sử quý giá. Có thể coi đây là mầm mống của sử học.
Thời Tây Chu, Đông Chu và các nƣớc chƣ hầu nhƣ Tấn, Sở, Lỗ... đặt các chức quan
chép sử. Trong các sách lịch sử của các nƣớc tốt nhất là
54
quyển sử biên niên của nƣớc Lỗ. Khổng Tử biên soạn lại thành sách Xuân Thu. Đó là quyển
sử do tƣ nhân biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc.
Tác phẩm này ghi chép các sự kiện lịch sử trong 242 năm (722 - 481 TCN). Sách
Xuân Thu cô đọng, ngắn gọn, toàn bộ sách chỉ có 18.000 chữ nhƣng đã ghi chép các sự kiện
lịch sử lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao của 124 nƣớc chƣ hầu.
Ngoài sách Xuân Thu, còn có các tác phẩm khác nhƣ Thƣợng Thƣ (Kinh Thi ), Chu
Lễ... cũng là những tài liệu lịch sử quí giá để nghiên cứu tình hình chính trị, chế độ quan lại,
lễ nghi lúc bấy giờ.
Thời Chiến quốc có các sách nhƣ Tả truyện, Quốc Ngữ, Chiến quốc sách, Lã Thị
Xuân Thu là những tác phẩm sử học rất có giá trị.
Thời Tây Hán, sử học Trung Quốc bắt đầu trở thành một lĩnh vực độc lập mà ngƣời
đặt nền móng đầu tiên là Tƣ Mã Thiên.
TƢ MÃ THIÊN
Tƣ Mã Thiên hiệu là Tử Trƣờng sinh năm 145 TCN tại Long Môn, nay là huyện Hàm
Thành, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Tổ tiên ông từ đời nhà Chu đã từng làm đến Thái sử.
Cha ông là Tƣ Mã Đàm, một thái sử lệnh của nhà Hán. Tƣ Mã Đàm rất yêu cái nghề ngự sử
của mình, coi đó là một nghề cao quý vì nó có tác dụng to lớn đến hƣng thịnh, suy vong của
một quốc gia. Là ngƣời tinh thông nhiều lĩnh vực nên ngoài việc viết sử, ông còn coi thiên
văn, bói toán, làm lịch... Chính ngƣời cha Tƣ Mã Đàm đã ảnh hƣởng rất lớn đến tính cách và
tƣ tƣởng của Tƣ Mã Thiên.
Thời thơ ấu, Tƣ Mã Thiên sống ở Long Môn học hành, cày ruộng, chăn cừu, làm bạn
với những ngƣời nông dân bình thƣờng. Lên mƣời tuổi ông đã đọc Tả truyện, Quốc Ngữ, Thế
Bản và thuộc lòng hầu hết những bài văn nỗi tiếng của thời trƣớc, năm hai mƣơi tuổi, ông đi
du ngoạn nhiều nơi ở trong nƣớc, tậm mắt xem những nơi có địa điểm văn hóa, lịch sử.
Trƣớc tiên ông đi về phía nam đến trƣờng Giang, vƣợt sông Hoài, sông Tử thăm mộ mẹ Hàn
Tín. Ông lên núi Cối Kê xem nơi Hạ Vũ triệu tập chƣ hầu, vào hang Vũ Động tìm dấu tích
vua Vũ. Chính ở Cối Kê ông đƣợc nghe những chuyện về Việt Vƣơng Câu Tiễn, lên Cô Tô
tìm di tích Ngũ Tử Tƣ, đi thuyền trên Thái Hồ sƣu tầm về truyền thuyết Tây Thi - Phạm Lãi.
Ông tiếp tục ngƣợc lên Trƣờng Sa đến sông Mịch La tƣởng nhớ Khuất Nguyên, đến sông
Tƣơng leo núi Cữu Nghi tìm dấu vết mộ vua Thuấn và khảo sát
55
những phong tục thời Hoàng Đế. Ông lại đi lên phía Bắc vƣợt sông Vấn, sông Tứ đến nƣớc
Tề, nƣớc Lỗ thăm lăng miếu của Khổng Tử. Đến đất Tiết thăm và tìm hiểu Mạnh Thƣờng
Quân, đến Bành Thành, quê hƣơng của Lƣu Bang, ngƣời dựng nên nhà Hán. Trong những
chuyến du ngoạn này ông cũng không quên đến nƣớc Sở, nƣớc Ngụy rồi kết thúc chuyến
hành trình suốt ba năm để trở về kinh đô Trƣờng An.
Chính những chuyến đi làm cho Tƣ Mã Thiên thấy đƣợc sƣ bao la, hùng vĩ của đất
nƣớc, hình thành ý thức một cách sâu sắc về sự vĩ đại của dân tộc Trung Hoa. Và cũng nhờ
những chuyến đi đó ông đã thu thập đƣợc vô số câu chuyện, tài liệu lịch sử về các sự kiện và
nhân vật lịch sử cũng nhƣ thái độ của nhân dân đối với những nhân vật và sự kiện lịch sử đó.
Năm 110 TCN, Tƣ Mã Đàm qua đời. Trƣớc khi mất, Tƣ Mã Đàm cầm tay con mà dặn
rằng: Tổ tiên ta đời đời làm sử quan, sau khi ta chết đi, thế con cũng nối nghiệp ta làm Thái
sử. Khi làm thái sử con chớ quên những việc ta muốn bàn, muốn biết. Hiện nay, bốn biển một
nhà, vua sáng tôi hiền, ta làm thái sử mà không chép đƣơc, rất lấy làm xấu hổ, con hãy nhớ
lấy.
Sau ba năm mãn tang, ông thay cha làm thái sử lệnh. Ông đã vƣợt lên nỗi oan trái
trong vụ Lí lăng, bắt tay vào viết bộ Sử kí để vừa thực hiện lời trăng trối của cha và cũng là
thực hiện hoài bão của mình.
Trải qua nhiều năm và vƣợt qua những khó khăn về tƣ liệu, rốt cuộc Tƣ Mã Thiên
cũng đã hoàn thành bộ Sử ký. Với tác phẩm Sử ký, bộ thông sử đầu tiên của Trung Quốc, ông
đã ghi chép lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ đế. Toàn
bộ tác phẩm gồm 12 bản kỷ, 10 biểu, 8 thƣ, 30 thế gia, 70 liệt truyện.
- Bản kỷ: Là sự tích các vua.
- Biểu: Là bảng tổng kết về niên đại.
- Thƣ: Là lịch sử các chế độ, các ngành riêng biệt nhƣ lễ, nhạc, kinh tế...
- Thế gia: Là lịch sử các chƣ hầu và những ngƣời có danh vọng.
- Liệt truyện: Chuyện các nhân vật lịch sử khác.
Qua 5 phần đó, Tƣ Mã Thiên đã ghi lại mọi mặt trong xã hội nhƣ chính trị, kinh tế,
quân sự, văn hóa, ngoại giao... của Trung Quốc trong giai đoạn lịch sử đó.
56
Tƣ Mã Thiên đã có đóng góp to lớn vào nền sử học Trung Quốc. Có thể nói ngày nay
không một ai khi nghiên cứu về lịch sử cổ trung đại Trung Quốc mà không tham khảo tác
phẩm của ông.
BAN CỐ
Cha của Ban Cố là Lan đài Lệnh sử thời Tây Hán. Tiếp bƣớc cha, Ban Cố cũng giữ
chức Lan đài Lệnh sử thời Đông Hán, có nhiệm vụ bảo quản chỉnh lí sách vở, hồ sơ của nhà
nƣớc, khởi thảo các văn kiện, biên soạn sử sách.
Hán thƣ của Ban Cố viết về lịch sử triều Tây Hán ghi chép lịch sử từ Hán Cao Tổ
(206 TCN) cho đến cuối thời Vƣơng Mãng (năm 23 sau CN), tất cả có 230 năm. Hán thƣ bao
gồm 12 bản kỷ, 8 điệu, 10 chí, 70 liệt truyện. Cuốn sử là một cuốn Đoan đại sử đƣợc viết
theo thể kỉ truyện. Sau khi bộ Hán thƣ của ông ra đời, thể lệ biên soạn lịch sử lấy biểu, kỉ,
chí, truyện làm hình thức, lấy từng triều đại làm một bộ sử trở thành hình thức tiêu biểu của
việc viết sử cho đời sau. Ban Cố đã là ngƣời mở đầu và sáng tạo ra một thể loại viết sử mới là
không viết theo thời đại. Đây là một cuốn chuyên sử về chế độ chính trị, pháp luật, về học
thuật, về lịch sử địa lí, về các công trình thủy lợi...
Hán thƣ là một tác phẩm cổ vũ cho chế độ. Ban Cố sống trong một chế độ chuyên chế
phong kiến do đó không thể không bị chi phối bởi tƣ tƣởng thần học, kị húy.... Ông cổ động
cho tƣ tƣởng nhà Hán là ngƣời có sứ mệnh kế thừa nhà Nghiêu, tán dƣơng luân lí cƣơng
thƣờng nho giáo phong kiến, phê phán tƣ tƣởng chống đối của Tƣ Mã Thiên...
Mặc dầu vậy, tác phẩm Hán thƣ của Ban Cố cũng đã đƣợc ngƣời đời sau xếp vào một
trong 24 bộ chính sử của Trung Quốc ( Nhị Thập tứ sử).
PHẠM VIỆP (398 - 445) sống vào thời Lƣu Tống Nam Triều, có tác phẩm Hậu Hán
Thƣ. Đây cũng là một bộ sử có giá trị, đƣợc đánh giá cao thời bấy giờ.
Bốn tác phẩm Sử ký, Hán thƣ, Tam quốc chí, Hậu Hán thƣ đều do tƣ nhân soạn và
đƣợc gọi chung là "tiền tứ sử" (4 bộ sử có trƣớc). Bắt đầu từ thời nhà Đƣờng, cơ quan biên
soạn lịch sử của nhà nƣớc đƣợc đƣợc thành lập. Cơ quan này đƣợc gọi là "Sử quán". Việc
thành lập một tổ chức chuyên lo biên soạn lịch sử thể hiện nhà nƣớc chú trọng và chăm lo
công việc biên soạn lịch sử.
57