Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 113 trang )
trào hoàn toàn mới mà giai cấp tƣ sản muốn xây dựng cho phù hợp với thế lực kinh tế và lối
sống của mình.
Phong trào Văn hóa Phục hƣng nói chung và sử học Phục hƣng nói riêng có khuynh
hƣớng chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại sự ràng buộc của thần học, đề cao chủ nghĩa
nhân văn, đề cao tinh thần dân tộc...
Sự tiến bộ mạnh mẽ của sản xuất cùng với những thành tựu của khoa học, kỹ thuật,
văn hóa... đã tạo nên những cơ sở tƣơng đối vững chắc cho sự phát triển của sử học thời kì
này.
4.2. Những thành tựu của sử học Phục Hƣng
Vào thế kỷ XVI, nền sử học đã phát triển ở Pháp, Italia và các nƣớc khác. Các nhà sử
học đã đi vào các xu hƣớng khác nhau, bƣớc đầu tạo nên sự phong phú và đa dạng trong
nghiên cứu sử học.
Một trong những phát hiện và đóng góp lớn của các nhà sử học thế kỷ XVI là không
còn thỏa mãn với lối kể chuyện, họ đã tách lịch sử ra khỏi những cây chuyện ngụ ngôn để
nghiên cứu và phê phán các dấu vết của quá khứ nhằm xác lập các sự kiện chính xác chừng
nào tốt chừng đấy.
Trong xu hƣớng chung của nền Văn hóa Phục hƣng, muốn khôi phục lại những thành
tựu nền văn hóa Hi - La cổ đại, các nhà sử học nhân văn chủ nghĩa đã hăng hái đi vào nghiên
cứu các tác giả thời cổ đại, nhờ vậy một khối lƣợng lớn tƣ liệu đã đƣợc khai thác và chỉnh lý.
Nhờ những tiến bộ trong in ấn, công tác in ấn và phổ biến các tác phẩm sử học cũng
có tiến bộ hơn. Trong những điều kiện mới, sử học phục hƣng đã có những thành tựu to lớn.
Sử học Phục hƣng đã có những bƣớc phát triển lớn về phƣơng pháp nghiên cứu. Các
khoa học hỗ trợ cho khoa học lịch sử đƣợc chú trọng nghiên cứu. Đã xuất hiện những ngành
nghiên cứu mới, những chuyên ngành hẹp của sử học nhƣ bộ môn sử liệu học, cổ tự học (chủ
yếu nghiên cứu văn tự Latinh), ngành niên đại học...
Từ những thành tựu nghiên cứu đó đã góp phần vào cải cách lịch pháp. Lịch Grêgo ra
đời vào thế kỷ XVII tạo điều kiện cho khoa học lịch sử phát triển hơn nữa.
Sử học không còn đóng cửa với những tri thức đơn lẽ của mình mà đã hình thành xu
hƣớng của sự liên kết sử học với các khoa học khác nhƣ sự liên hệ giữa sử học và kinh tế
chính trị học, sử học với địa lý học...
51
Sự xuất hiện các bộ môn mới của sử học tức là xu hƣớng phân ngành trong nghiên
cứu lịch sử chứng tỏ khoa học lịch sử đã có những bƣớc phát triển. Các bộ môn nhƣ sử liệu
học, cổ tự học, niên đại học, lịch pháp học không chỉ trợ giúp một cách đắc lực cho việc
nghiên cứu lịch sử, mà bản thân các bộ môn đã xây dựng cho mình hệ thống tri thức và
những cơ sở phƣơng pháp luận nghiên cứu đặc trƣng.
Các nhà sử học tiêu biểu
Sử học phục hƣng đã có những thành công to lớn, xuất hiện nhiều nhà sử học nổi
tiếng nhƣ Francis Bacon (1561-1626), N.Machiavel (1469-1527), L.Bruni, F.Bôngđô,
Etierine Pasquier, luật sƣ ngƣời Pháp với cuốn "Các công trình nghiên cứu ở Pháp" (từ 1560
trở đi), Jean WoIf: Hợp tuyển nghệ thuật lịch sử, Jean Bodin (1530 - 1596): Phƣơng pháp để
dễ dàng hiểu biết lịch sử, Lancelot De Popeliniere (1540 - 1608): Tƣ duy về lịch sử đã hoàn
tất (1599), Francois Hotman (1524 - 1590): Franco - Gallia (1573).
FRANCIS BACON (1561 -1626)
Ông là nhà triết học nổi tiếng nƣớc Anh, ngƣời tiêu biểu cho triết học duy vật Anh và
trƣờng phái khoa học thực nghiệm.
Tuyên bố tin chúa và sống thuận hòa với chúa, nhƣng nhấn mạnh không nên lẫn lộn
đức tin với nhận thức. Trong nghiên cứu lịch sử, ông cho rằng phải cần thƣợng đế giúp đỡ để
nhận biết các nguyên nhân và hiểu rõ mối quan hệ giữa các nguyên nhân đó.
Ông khuyên mọi ngƣời trong nghiên cứu không nên dừng lại ở những nguyên nhân
rời rạc, thứ yếu vì sẽ dẫm chân tại chổ. Để tăng thêm tính khoa học của lịch sử, cần khảo sát
kỹ các sự kiện và tìm hiểu mối quan hệ nhân quả.
MACHIAVEL (1469 -1527)
Là chính khách kiêm sử gia ngƣời Italia, là một tác giả quan trọng của dòng sử gia
nhân văn.
Giống nhƣ Polibi thời cổ đại, ông xem sự kiện chính trị cũng giống nhƣ hiện tƣợng tự
nhiên. Hoạt động của con ngƣời luôn có những thăng trầm, nhƣng bằng những thủ đoạn
riêng, con ngƣời có khả năng củng cố và duy
52
trì quyền lực chính trị, nghĩa là con ngƣời có thể dự đoán và góp phần xây dựng tƣơng lai.
Trong nghiên cứu sử học, Machiavel cũng có những hạn chế nhƣ quá cƣờng điệu vai
trò cá nhân, coi thƣờng vai trò của quần chúng nhân dân, chỉ giới hạn nghiên cứu trong lĩnh
vực lịch sử - chính trị. Ông mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu, phân tích bề ngoài của sự kiện
mà chƣa chú trọng tìm hiểu bản chát của các sự kiện và hiện tƣợng lịch sử.
RENE DECAC(1596- 1650 )
Đêcác tốt nghiệp khoa Luật năm 20 tuổi, và đã từng chu du nhiều nơi trên thế giới.
Năm 1627, ông về sống ở Bretagne, miền tây nƣớc Pháp và sau đó đến định cƣ ở Hà Lan
năm 1629.
Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm có: Bàn về thế giới hay là bàn về ánh sáng
(trong đó có một phần bàn về con ngƣời) (1633), Bàn về phƣơng pháp (1637), Nguyên tắc
về triết lí (1644), Luận về say mê về linh hồn (1650)...
Phạm vi nghiên cứu của Đêcác rất rộng, về lĩnh vực sử học ông coi sử học nhƣ là một
bộ môn nghiêng về nghệ thuật mà không thực sự là một khoa học vì sử học yếu về tính phê
phán, chỉ mộ tả sự kiện mà không tìm ra quy luật... Ông đƣa ra khái niệm tiến bộ cho sự phát
triển của thế giới. Sự vật và thế giới tiến bộ không ngừng và quá trình đó có tù đầu cho đến
khi sự vật đạt tới sự hoàn hảo. Tính biện chứng về sự phát triển đi lên này là cơ sở cho
những nhận thức tiếp theo về lịch sử.
Đêcác là ngƣời luôn đề cao phƣơng pháp. Ông nói thiếu phƣơng pháp thì ngƣời tài
cũng không thu đƣợc kết quả, có phƣơng pháp thì ngƣời bình thƣờng cũng có thể làm những
việc phi thƣờng. Ông luôn chú ý để tìm ra phƣơng pháp tƣ duy để khám phá ra chân lí. Ông
cố gắng đặt nền tảng lí thuyết của mình vào những gì mà ông đã chứng minh đó là chân thật.
Ông tìm kiếm để khám phá sự thật bằng cách hoài nghi tất cả, và nhận ra sự hoài nghi đó đã
giúp ông suy nghĩ đúng. Ông thấy tƣ duy là tất cả giá trị của con ngƣời (Tôi tƣ duy vì vậy tôi
tồn tại). Ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, đó là sự thật, vì thế ông tiếp tục bổ
sung những sự thật hiển nhiên khác.
Những quan điểm của Đêcác đã có ảnh hƣởng tích cực đến sử học trong việc cố gắng
để đạt đến sự chính xác và tính phê phán trong nghiên cứu lịch
53
sử.
Dƣới ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Phong trào văn hóa Phục hƣng, sử học thời Phục hƣng
với những tên tuổi lớn đã đạt đƣợc những thành tựu lớn trong cuộc đấu tranh tƣ tƣởng với
Giáo hội và phong kiến, về nội dung đề cập, về việc phê phán các nguồn tƣ liệu, về phƣơng
pháp luận sử học và làm xuất hiện những chuyên ngành mới của sử học...
III. Sử học Phƣơng Đông thời phong kiến
1. Hoàn cảnh lịch sử
Các nƣớc phƣơng Đông bƣớc vào chế độ phong kiến sớm hơn nhƣng lại kết thúc chế
độ phong kiến muộn hơn các nƣớc phƣơng Tây. Sự phát triển của chế độ phong kiến phƣơng
Đông trên cơ sở sự tiếp tục những cơ sở xã hội của thời kì cổ đại. Những nền văn minh hình
thành trên những lƣu vực các con sông lớn đã tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội phong kiến
phƣơng Đông phát triển. Nhƣng cũng chính trên những điều kiện tự nhiên đó, do nhu cầu của
công cuộc trị thủy đã hình thành nên những nhà nƣớc trung ƣơng tập quyền với quyền lực vô
hạn. Cùng với những tƣ tƣởng, tôn giáo ra đời trƣớc đó mang nặng tính chất duy tâm, sùng
tín, khắt khe... đã góp phần kìm hãm sự phát triển nhanh chóng xã hội phƣơng Đông. Quần
chúng nhân dân thì không thoát khỏi sự kìm kẹp, khống chế của tƣ tƣởng tôn giáo, phong
kiến. Giai cấp phong kiến thống trị thì cố duy trì những tƣ tƣởng bảo thủ, trì trệ có lợi cho
việc thống trị xã hội của mình. Những yếu tố trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến sự hình thành
và phát triển của nền sử học phong kiến phƣơng Đông. Tuy vậy nền sử học phong kiến
Phƣơng Đông cũng đã thu đƣợc những thành tựu to lớn.
2. Sử học phong kiến phươngĐông
2.1. Sử học Trung Quốc
Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng đế Trung Quốc đã có những sử quan tên là Đại
Náo, Thƣơng Hiệt. Đến đời Thƣơng trong các tài liệu bằng chữ giáp cốt có chứa đựng một số
tƣ liệu lịch sử quý giá. Có thể coi đây là mầm mống của sử học.
Thời Tây Chu, Đông Chu và các nƣớc chƣ hầu nhƣ Tấn, Sở, Lỗ... đặt các chức quan
chép sử. Trong các sách lịch sử của các nƣớc tốt nhất là
54
quyển sử biên niên của nƣớc Lỗ. Khổng Tử biên soạn lại thành sách Xuân Thu. Đó là quyển
sử do tƣ nhân biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc.
Tác phẩm này ghi chép các sự kiện lịch sử trong 242 năm (722 - 481 TCN). Sách
Xuân Thu cô đọng, ngắn gọn, toàn bộ sách chỉ có 18.000 chữ nhƣng đã ghi chép các sự kiện
lịch sử lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao của 124 nƣớc chƣ hầu.
Ngoài sách Xuân Thu, còn có các tác phẩm khác nhƣ Thƣợng Thƣ (Kinh Thi ), Chu
Lễ... cũng là những tài liệu lịch sử quí giá để nghiên cứu tình hình chính trị, chế độ quan lại,
lễ nghi lúc bấy giờ.
Thời Chiến quốc có các sách nhƣ Tả truyện, Quốc Ngữ, Chiến quốc sách, Lã Thị
Xuân Thu là những tác phẩm sử học rất có giá trị.
Thời Tây Hán, sử học Trung Quốc bắt đầu trở thành một lĩnh vực độc lập mà ngƣời
đặt nền móng đầu tiên là Tƣ Mã Thiên.
TƢ MÃ THIÊN
Tƣ Mã Thiên hiệu là Tử Trƣờng sinh năm 145 TCN tại Long Môn, nay là huyện Hàm
Thành, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Tổ tiên ông từ đời nhà Chu đã từng làm đến Thái sử.
Cha ông là Tƣ Mã Đàm, một thái sử lệnh của nhà Hán. Tƣ Mã Đàm rất yêu cái nghề ngự sử
của mình, coi đó là một nghề cao quý vì nó có tác dụng to lớn đến hƣng thịnh, suy vong của
một quốc gia. Là ngƣời tinh thông nhiều lĩnh vực nên ngoài việc viết sử, ông còn coi thiên
văn, bói toán, làm lịch... Chính ngƣời cha Tƣ Mã Đàm đã ảnh hƣởng rất lớn đến tính cách và
tƣ tƣởng của Tƣ Mã Thiên.
Thời thơ ấu, Tƣ Mã Thiên sống ở Long Môn học hành, cày ruộng, chăn cừu, làm bạn
với những ngƣời nông dân bình thƣờng. Lên mƣời tuổi ông đã đọc Tả truyện, Quốc Ngữ, Thế
Bản và thuộc lòng hầu hết những bài văn nỗi tiếng của thời trƣớc, năm hai mƣơi tuổi, ông đi
du ngoạn nhiều nơi ở trong nƣớc, tậm mắt xem những nơi có địa điểm văn hóa, lịch sử.
Trƣớc tiên ông đi về phía nam đến trƣờng Giang, vƣợt sông Hoài, sông Tử thăm mộ mẹ Hàn
Tín. Ông lên núi Cối Kê xem nơi Hạ Vũ triệu tập chƣ hầu, vào hang Vũ Động tìm dấu tích
vua Vũ. Chính ở Cối Kê ông đƣợc nghe những chuyện về Việt Vƣơng Câu Tiễn, lên Cô Tô
tìm di tích Ngũ Tử Tƣ, đi thuyền trên Thái Hồ sƣu tầm về truyền thuyết Tây Thi - Phạm Lãi.
Ông tiếp tục ngƣợc lên Trƣờng Sa đến sông Mịch La tƣởng nhớ Khuất Nguyên, đến sông
Tƣơng leo núi Cữu Nghi tìm dấu vết mộ vua Thuấn và khảo sát
55